Đăng ký | Đăng nhập

Email / Điện thoại

Mật khẩu

Nhớ mật khẩu | Quên mật khẩu

588030_87d9a

CHÍNH TRỊ HỌC

Chinhtrihoc.vn là website cá nhân của GS.TSKH Phan Xuân Sơn. Trang chinhtrihoc.vn là một trang web khoa học, nơi kết nối các nhà khoa học, những ai yêu thích, tâm huyết với việc nghiên cứu khoa học chính trị. Trang web ra đời nhằm góp phần vào sự phát triển khoa học chính trị nước nhà nói riêng, sự phát triển đất nước nói chung. Trang web được đăng ký và hoạt động theo pháp luật nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Chỉ các thành viên mới được đăng bài. Chịu trách nhiệm nội dung: GS.TSKH Phan Xuân Sơn. Hỗ trợ web: KS.CNTT Phạm Thị Ngọc Thanh ☏ 0866772894

QUYỀN LỰC NHÀ NƯỚC VÀ PHƯƠNG THỨC TỔ CHỨC THỰC THI QUYỀN LỰC NHÀ NƯỚC

QUYỀN LỰC NHÀ NƯỚC VÀ PHƯƠNG THỨC TỔ CHỨC THỰC THI QUYỀN LỰC NHÀ NƯỚC

GS. TSKH Phan Xuân Sơn, chủ biên và biên soạn: Chuyên đề 3 trong Tập Bài giảng chính trị học dành cho cao học chuyên chính trị học, Nxb. LLCT-HC 2008

4567

Chuyên đề 3
QUYỀN LỰC NHÀ NƯỚC VÀ PHƯƠNG THỨC TỔ CHỨC THỰC THI QUYỀN LỰC NHÀ NƯỚC

 

I. QUYỀN LỰC CÔNG CỘNG VÀ QUYỀN LỰC NHÀ NƯỚC

1.1. Quyền lực công cộng

Quyền lực công cộng[1] là nhu cầu tất yếu, khách quan trong đời sống của con người khi đã tập hợp thành xã hội. Đó chính là nhu cầu phối hợp hoạt động chung, duy trì trật tự chung và bảo vệ cộng đồng xã hội khỏi sự xâm hại từ bên ngoài. Đối với một cộng đồng nhỏ, như gia đình, dòng họ thậm chí là thị tộc… quyền lực công cộng được tổ chức rất đơn giản, thường được trao cho một người hoặc một nhóm ít người có uy tín hoặc có sức mạnh. Ví dụ, quyền lực công cộng của một cộng đồng nhỏ nhất là gia đình chẳng hạn (tế bào của xã hội) thường trao cho người đàn bà (trong chế độ mẫu hệ) hoặc cho người đàn ông (trong chế độ phụ hệ); trong dòng họ thường trao cho người cao tuổi, người có uy tín; đối với thị tộc thường trao cho một Hội đồng thị tộc gồm những người có uy tín và các thủ lĩnh quân sự. Cơ quan quyền lực công cộng này còn gắn chặt với cộng đồng, vừa trực tiếp sản xuất và vừa làm chức năng quản lý xã hội. Trong loại hình tổ chức xã hội này, quá trình thực thi quyền lực công cộng rất minh bạch: cùng bàn bạc, cùng quyết định, cùng thực hiện và cùng chịu trách nhiệm (hưởng hoặc không hưởng kết quả của những quyết định đó). Các chu trình thực thi quyền lực công cộng trong xã hội thị tộc là trực tiếp, khép kín, từ lúc ra quyết định đến lúc có kết quả của quyết định đó, không qua cấp trung gian, không qua một đội ngũ “quan lại” trung gian nào.

Đây là một mô hình thực thi quyền lực công cộng mang tính minh bạch lý tưởng. Tuy nhiên mô hình như vậy chỉ có thể tồn tại ở quy mô một thị tộc, hay một cộng đồng nhỏ. Khi sản xuất phát triển hơn, khi quy mô dân cư tăng lên, khi các mối tương tác nhiều hơn cũng là khi xuất hiện nhiều hơn các hình thức liên kết cá nhân, liên kết các cộng đồng xã hội, các thị tộc…Từ đây xuất hiện các tập đoàn xã hội, các giai cấp… ở phạm vi rộng lớn đó là các quốc gia, các nhà nước.

1.2. Quyền lực nhà nước

Nói đến nhà nước là nói đến một loại cộng đồng rộng lớn, trong đó có nhiều thành phần giai cấp, ổn định, sống trong một vùng lãnh thổ được khẳng định chủ quyền, gọi là biên giới quốc gia. Quyền lực công cộng kiểu thị tộc đã không thể duy trì được nữa, khách quan yêu cầu quyền lực công cộng cho toàn xã hội trên lãnh thổ quốc gia. Bây giờ quyền lực này không những mang tính chất công cộng, mà hơn thế mang tính chất công cộng bao trùm nhất, rộng lớn nhất – bao trùm toàn xã hội và toàn bộ lãnh thổ quốc gia. Vì tính chất đó, chủ thể quyền lực công cộng này – nhân dân, không thể tự thực thi một cách trực tiếp như quyền lực công cộng trong công xã hoặc thị tộc. Nó được trao cho một cơ quan, lúc đầu là từ xã hội nhưng bây giờ đã đứng lên trên xã hội, độc lập với xã hội. Cơ quan tối cao đó của xã hội gọi là “nhà nước”.

 Như vậy, từ lúc tan rã của chế độ công xã thị tộc, cùng với sự xuất hiện của cải thặng dư và việc chiếm hữu của cải thặng dư, cùng với xuất hiện giai cấp và bắt đầu hình thành bộ máy cai trị của tầng lớp giàu có. Khi mà thị tộc đã không thể giúp đỡ được con người, con người cần đến nhà nước và nhà nước đã ra đời, nhưng lại nằm trong tay kẻ mạnh; chủ quyền nhà nước, vốn từ nhân dân, tự nhiên đã thuộc về kẻ mạnh. “Chúng được tôn kính như thần thánh, chúng xét xử và trừng phạt, giải quyết các cuộc tranh chấp”[2]. Tầng lớp này tạo ra “luật pháp” để cho mọi người phải thừa nhận sự thống trị của họ. Lúc này pháp luật hoàn toàn thuộc vào kẻ mạnh.

Ăngghen cũng đã từng viết về tình trạng này: “Lòng tôn kính không ép buộc mà trước kia người ta tự nguyện biểu thị với các cơ quan của xã hội thị tộc, là không đủ đối với bọn quan lại nữa, ngay cả trong trường hợp họ có cả sự tôn kính đó; họ là những đại biểu cho một quyền lực đã trở nên xa lạ đối với xã hội, nên phải bảo đảm quyền này của họ bằng những đạo luật đặc biệt, những đạo luật khiến cho họ trở thành đặc biệt thần thánh và đặc biệt bất khả xâm phạm. Viên cảnh sát tồi nhất của một nhà nước văn minh vẫn có quyền uy hơn tất cả những cơ quan của xã hội thị tộc cộng lại; nhưng một vương công có thế lực nhất, một chính khách hoặc một chỉ huy quân sự lớn nhất của thời đại văn minh vẫn có thể ghen tị với một vị thủ lĩnh nhỏ nhất trong thị tộc về sự tôn kính tự nguyện và không thể tranh cãi được mà vị thủ lĩnh ấy được hưởng. Đó là vì vị thủ lĩnh thị tộc nằm ngay trong lòng xã hội, còn những người kia thì bắt buộc mong muốn đại biểu cho một cái gì ở bên ngoài và đứng trên xã hội”[3].

Như vậy sự ra đời của nhà nước, việc hình thành bộ máy quan liêu, đội ngũ quan lại đứng lên trên xã hội đã mở đầu cho một quá trình phát triển lâu dài của xã hội có nhà nước và cũng bắt đầu cho một quá trình lâu dài tha hóa quyền lực nhà nước.

Cuộc đấu tranh chống chế độ quan liêu - chuyên chế hà khắc nói chung, chống nhà cầm quyền nói riêng bằng nhiều hình thức vô cùng phong phú, đa dạng, đỉnh cao là những cuộc khởi nghĩa của nhân dân. Các cuộc đấu tranh đó, nhìn tổng quát trong lịch sử là một bộ phận không tách rời của các cuộc đấu tranh giai cấp. Qua các cuộc đấu tranh đó, nhà nước ngày càng tiến hóa và ngày càng văn minh hơn, chức năng công quyền ngày càng được quan niệm và thực hiện đúng hơn; hoạt động của nhà nước ngày càng được minh bạch, được sự kiểm soát chặt chẽ của toàn xã hội.

Sự ra đời của nhà nước pháp quyền chính là thành quả của văn minh hóa tổ chức và hoạt động của nhà nước, chống sự tha hóa quyền lực nhà nước, và là một phương thức quan trọng trong tổ chức và thực thi quyền lực nhà nước, chống tệ nạn quan liêu, tham nhũng. Tuy vậy, nhà nước pháp quyền cũng có những thất bại của nó, cho nên không thể có ảo tưởng rằng cứ xây dựng nhà nước pháp quyền thì tự nhiên tham nhũng sẽ bị đẩy lùi.

Ngày nay, trong bất kỳ hệ thống xã hội nào, ngoài nhà nước còn hàng loạt các tổ chức khác nhau như: đảng chính trị, các tổ chức chính trị - xã hội, các tổ chức xã hội, xã hội nghề nghiệp, các tổ chức kinh tế… Nhưng không có tổ chức nào có được tính chất như nhà nước.

Một đặc điểm của tổ chức quyền lực công (bộ phận cơ bản của quyền lực nhà nước) là một bộ máy có nhiều cấp, tổ chức bao trùm và rộng khắp toàn xã hội, những người được giao nhiệm vụ thực thi quyền lực công là những người giữ một chức vụ, có quyền hạn nhất định và được giao các phương tiện công để thực hiện quyền lực; trong đó có nhiều phương tiện đặc quyền, tức ngoài bộ máy nhà nước, không ai có thể có được. Công chức hành chính nhà nước có quyền ra quyết định hành chính bắt buộc thi hành ngay, quyền cưỡng chế hành chính, quyền trưng dụng, trưng mua. Thẩm phán các toà án có quyền xét xử các vụ án hình sự, dân sự, lao động, kinh tế, hành chính. Kiểm sát viên có quyền công tố và kiểm sát chung. Thủ trưởng các cơ quan nhà nước có quyền quản lý, sử dụng tài chính, công sản nhà nước. Người đứng đầu các tổ chức kinh tế, dịch vụ nhà nước có quyền quản lý, sử dụng vốn, tài sản nhà nước giao cho họ. Sự khác biệt giữa cơ quan tổ chức nhà nước với các tổ chức khác không phải cơ quan công quyền là toàn bộ quyền hạn của cơ quan, tổ chức, chức vụ nhà nước được pháp luật quy định, làm cho nó trở thành quyền lực hợp pháp và tối cao. Tuy nhiên, trong thực thi quyền lực nhà nước, sự xê dịch giữa đúng thẩm quyền và lạm quyền chỉ là gang tấc, ở đó dễ có khuynh hướng lạm quyền.

Trong xã hội có giai cấp, cuộc đấu tranh chính trị (xung đột) với nhiều hình thức và phương pháp khác nhau vẫn luôn luôn tồn tại. Nó biểu đạt mối tương quan, quan hệ giữa các giai cấp, các tầng lớp... Trong sự xung đột không tự điều hoà được đó vẫn cần sự cân bằng tương đối các quan hệ chính trị, và để giữ cho sự cân bằng được tương đối, phải cần đến nhà nước, và chừng nào còn cần có sự cân bằng tương đối đó thì nhà nước vẫn tồn tại với tư cách là nhà nước. Nhà nước là sản phẩm của xã hội có giai cấp và đấu tranh giai cấp. Quyền lực mà nhà nước có được gọi là quyền lực nhà nước.

Qua phân tích trên, ta thấy rằng, quyền lực chính trị và quyền lực nhà nước ra đời và tồn tại song song với nhau, đều là sản phẩm của xã hội có giai cấp, nhưng khác nhau, quyền lực chính trị có trong mọi giai cấp, mọi tập đoàn xã hội, còn quyền lực nhà nước là tập trung của quyền lực chính trị, là trung tâm của quyền lực chính trị, là phản ánh tương quan của các quan hệ chính trị và quyền lực chính trị. Ở góc độ này quyền lực nhà nước mang tính "chung", tính "cân bằng", tính "công quyền" của nó.

Mặt khác, thực tiễn cho thấy rằng, trong cuộc đấu tranh để giành lấy nhà nước, thắng lợi bao giờ cũng thuộc về lực lượng xã hội mạnh nhất, lực lượng này tiêu biểu cho một giai cấp nhất định, thường là giai cấp tiến bộ về mặt lịch sử. Ở góc độ này, quyền lực nhà nước mang tính giai cấp rõ rệt. Giai cấp thống trị, với tư cách là một giai cấp đại diện cho phương thức sán xuất mới khi nắm được nhà nước, nó dùng nhà nước để thực hiện thực hiện chức năng giai cấp thông qua chức năng xã hội, có nghĩa là phải đem nhà nước phục vụ lợi ích giai cấp thông qua và nhân danh phục vụ lợi ích toàn xã hội. Chức năng xã hội có tính điều kiện để thực hiện chức năng giai cấp. Nghĩa là muốn thực hiện tốt chức năng giai cấp, giai cấp thống trị buộc phải thực hiện chức năng xã hội.

Ăngghen đã nói rằng, ở khắp nơi, nhà nước chỉ có thể tồn tại chừng nào nó còn thực hiện được chức năng xã hội. Nhưng việc thực hiện chức năng xã hội buộc giai cấp thống trị trong chừng mực chấp nhận được phải hy sinh quyền lợi của giai cấp mình, buộc phải chia sẻ những đặc quyền đặc lợi của giai cấp mình. Nhưng việc “hy sinh” này cũng có giới hạn. Vượt qua giới hạn đó, giai cấp thống trị sẵn sàng sử dụng bộ máy nhà nước (mà lúc này nó đã làm chủ được) với mọi biện pháp kể cả dùng bạo lực đẫm máu, mà thông thường là như vậy, để bảo vệ đặc quyền đặc lợi của giai cấp mình. Đặc biệt là trong thời kỳ suy tàn, các giai cấp thống trị càng tỏ ra tàn bạo hơn trong việc trấn áp bằng vũ lực những tư tưởng và hành vi muốn “chia sẻ” lợi ích của giai cấp thống trị.

Việc xoá bỏ nhà nước, chỉ có thể diễn ra khi xoá bỏ giai cấp. Quá trình "xoá bỏ" này cũng không phải xuất phát từ mong muốn chủ quan, mà là một quá trình khách quan. Quá trình đó, lúc đầu là cuộc đấu tranh xoá bỏ ách thống trị của các giai cấp bóc lột, trong thời đại tư sản là xoá bỏ sự thống trị của giai cấp tư sản, thiết lập nhà nước của giai cấp công nhân và nhân dân lao động quá độ lên CNXH, khi đó nhà nước XHCN, không còn nguyên nghĩa là nhà nước nữa mà một nhà nước nửa nhà nước, cùng với sự phát triển của CNXN, nhà nước sẽ tự tiêu vong. Trong quá trình tự tiêu vong, chức năng giai cấp (hay còn gọi là chức năng chính trị) dần dần mất đi và sẽ không còn. Nhiệm vụ quản lý xã hội, mà trước đây nhà nước đảm nhiệm sẽ chuyển sang cho các tổ chức xã hội. Lúc này như Lênin nói, mọi sự quản lý (hiểu theo nghĩa nhà nước) đều trở nên không cần thiết nữa, vì mọi người đều đã học được cách quản lý.

Chúng ta đã vạch rõ bản chất nhà nước, quyền lực nhà nước, mô tả khái quát quá trình vận động của nhà nước và đưa ra dự báo về tương lai của nhà nước, để thấy rõ vai trò chức năng của nó, thấy rõ mối quan hệ giữa nhà nước và xã hội công dân.

Ngày nay, xã hội loài người đang ở vào một giai đoạn phát triển mà nhà nước và quyền lực nhà nước đang là vấn đề trung tâm, là phạm trù cơ bản của chính trị học, thì việc nghiên cứu quyền lực nhà nước và phương thức tổ chức quyền lực nhà nước còn có ý nghĩa cấp bách và đặc biệt quan trọng.

Định nghĩa: Nhà nước là một thể chế chính trị, ra đời trong một giai đoạn nhất định của lịch sử, khi những mâu thuẫn và xung đột về lợi ích giữa các giai cấp, các lực lượng xã hội đã trở nên không thể tự điều hoà được. Với tư cách và nhân danh là một cơ quan quyền lực của nhân dân, Nhà nước thực hiện chức năng xã hội (công quyền) và chức năng chính trị. Do độc quyền công cụ cưỡng chế và pháp luật, Nhà nước điều chỉnh hành vi của toàn xã hội trong một lãnh thổ xác định, được thừa nhận là chủ quyền quốc gia.

II. PHƯƠNG THỨC TỔ CHỨC QUYỀN LỰC NHÀ NƯỚC

2.1. Khái niệm

Phương thức tổ chức quyền lực nhà nước là tổng hợp những cách thức, hình thức và phương pháp tổ chức quyền lực nhà nước thành các cơ quan nhằm thực thi quyền lực nhà nước.

Phương thức tổ chức quyền lực nhà nước thay đổi qua từng giai đoạn của lịch sử, nó phu thuộc vào phương thức sản xuất xã hội và mang tính tất yếu. Có những phương thức tổ chức quyền lực nhà nước đặc trưng cho từng kiểu nhà nước. Nhưng cũng có những phương thức chung cho tất cả các kiểu nhà nước. Như vậy trong tổ chức và thực thi quyền lực nhà nước vừa mang tính tất yếu chính trị vừa mang tính tất yếu kỹ thuật. Bản chất giai cấp của nhà nước thay đổi qua từng kiểu nhà nước, nhưng một số hình thức tổ chức khác có thể ít thay đổi hơn. Để thực hiện chức năng của một cơ quan quyền lực công cộng của toàn xã hội, nhà nước có những nhiệm duy trì trật tự chung, điều hành hoạt động chung và bảo vệ quốc gia khỏi sự xâm hại từ bên ngoài. Trong bộ máy nhà nước phải có cơ quan ra quyết định, thực thi các quyết định và xét xử những ai vi phạm các quyết định đó. Những cơ quan đó ngày nay gọi là lập pháp, hành pháp, tư pháp.

Sự đan xen giữa các phương thức tổ chức và thực thi quyền lực nhà nước theo những tất yếu chính trị và kỹ thuật là rất phức tạp, đưa đến các cách phân loại khác nhau về nhà nước.

2.2. Phân loại theo kiểu nhà nước  

- Mỗi kiểu nhà nước có phương thức tổ chức riêng, mang bản chất riêng – bản chất của giai cấp thống trị. Đã từng tồn tại các kiểu nhà nước: chủ nô, phong kiến, tư sản, nhà nước XHCN.

- Cũng có thể phân loại theo “chế độ nhà nước” như tập quyền, phân quyền; chuyên chế, cộng hoà…

- Phân loại theo hình thức chính thể: Cộng hoà tổng thống, cộng hoà đại nghị,  cộng hoà hỗn hợp, cộng hoà XHCN

- Phân loại theo hình thức tổ chức : Nhà nước liên bang, nhà nước đơn nhất

Nhà nước có vị trí độc quyền kiểm soát lãnh thổ, thay mặt toàn xã hội thực hiện chính sách đối nội và đối ngoại, làm luật, các hoạt động điều tiết cần thiết cho toàn xã hội, thu thuế, các khoản thu khác, quyền kiểm soát việc chấp hành pháp luật và các chuẩn mực pháp lý khác quyền sử dụng cưỡng bức thể chất và các hình phạt khác.

2.3. Các cơ quan quyền lực nhà nước

a. Cơ quan lập pháp

Là cơ quan nhà nước được tổ chức để thực thi Quyền lập pháp, cơ quan này thường có tên gọi Nghị viện hay Quốc hội và một số tên gọi khác như ở Nga là Đuma quốc gia và Hội đồng Liên bang, ở Đức là Bundextas và Bundexrat...

Nhìn chung cơ quan lập pháp có các chức năng cơ bản sau:

  • Đại diện cho ý chí của nhân dân (cử tri),
  • Lập pháp,
  • Quyết định những vấn đề chung:

- Thông qua ngân sách, phân bổ ngân sách, chuẩn quyết toán ngân sách và quyết định các thứ thuế.

- Phê chuẩn hoặc hủy bỏ điều ước quốc tế, tuyên bố tình trạng chiến tranh, hòa bình, tình trạng khẩn cấp...

- Đóng vai trò quan trọng trong việc thành lập các cơ quan nhà nước.

  • Giám sát hoạt động các cơ quan nhà nước, quan chức nhà nước.

Trong chức năng này có các hình thức như: Nghe báo cáo của chính phủ, các thành viên chính phủ; chất vấn các thành viên chính phủ, bỏ phiếu tín nhiệm chính phủ, các thành viên chính phủ.

Luận tội người đứng đầu cơ quan hành pháp.

  • Những quyền hạn khác như quyết định trưng cầu dân ý, đại xá,
  • Quyền ủy quyền của nghị viện,
  • Phục vụ cử tri (đóng vai trò trung gian giữa cử tri và chính quyền).

Các chức năng trên đây đều được hiến pháp các nước quy định cụ thể. Trong thực tiễn, để thực hiện chức năng của mình các quốc hội phải tuân thủ những quy trình và thể thức hoạt động do pháp luật quy định.

Riêng việc thông qua các đạo luật là một quá trình phối hợp, đấu tranh, kiềm chế lẫn nhau rất phức tạp giữa hai nhánh quyền lực lập pháp và hành pháp, mà đằng sau hai cơ quan này là ảnh hưởng của các lực lượng chính trị - xã hội.

+ Cơ cấu tổ chức của nghị viện

Trừ một số nước có mô hình đặc biệt, nhìn chung các nghị viện có thể được kết cấu từ một viện hoặc hai viện. Hạ viện được thành lập chủ yếu do phổ thông đầu phiếu bầu trực tiếp. Đại biểu thượng viện thường là đại diện cho chủ thể quốc gia hoặc liên bang. Hình thức bầu vào thượng viện rất khác nhau. Nhiệm kỳ của hạ viện và thượng viện cũng rất khác nhau ở nhiều nước.

Các chức vụ chủ tịch nghị viện là người đứng đầu nghị viện (đối với nước chỉ một viện). Nếu có 2 viện thì có chủ tịch hạ viện và thượng viện. Chủ tịch hạ viện do hạ viện bầu, có nhiệm kỳ tương đương nhiệm kỳ hạ viện (có nước chức danh này chỉ dùng để điều khiển các phiên họp).

Chủ tịch thượng viện được hình thành theo các thể thức khác nhau: a) Đương nhiên (Mỹ - Phó tổng thống); b) Do bổ nhiệm (Anh - do Thủ tướng bổ nhiệm); c) Chủ tịch luân phiên, theo đó đại diện các bang (chủ thể sẽ luân phiên nhau làm chủ tịch).

Ở nhiều nước chủ tịch các viện là người lãnh đạo, điều khiển các phiên họp, bảo đảm quy chế của nghị viện, quản lý ngân sách của nghị viện.

Ở một số nước có ban thường vụ nghị viện. Ngoài ra nghị viện còn có đoàn thư ký, các ủy ban để chịu trách nhiệm một số lĩnh vực nhất định, đặc biệt là trong việc trình dự án luật, quan hệ với nhánh hành pháp và nhóm vận động hành lang.

Đại biểu hạ viện được dân bầu theo những thể thức, trên một tỷ lệ dân cư nhất định và được thẩm tra tư cách. Các đại biểu thượng viện, trừ một số nước có quy chế đặc biệt (như ở Anh), ở hầu hết các nước đều được bầu theo chủ thể quốc gia.

Trong quá trình thực hiện nhiệm vụ đại biểu các nghị sĩ thể hiện ý chí của cử tri có thể theo hai nguyên tắc:

- Ủy quyền mệnh lệnh

- Ủy quyền tự do

Theo nguyên tắc ủy quyền mệnh lệnh thì cử tri, thông qua bầu cử trao cho các đại biểu ủy nhiệm thư đồng thời có quyền bãi miễn đại biểu nếu đại biểu không thực hiện hoặc thực hiện không tốt ủy nhiệm thư (nhiều nước XHCN trước đây áp dụng nguyên tắc này).

Theo nguyên tắc ủy quyền tự do, thì các đại biểu dù được bầu lên ở đơn vị bầu cử nào, vẫn là người đại diện cho toàn thể nhân dân, bởi vậy không một ai có thể trao cho họ ủy nhiệm thư. Họ làm việc trong khuôn khổ hiến pháp, luật và theo nhận thức của mình để thông qua những quyết định phù hợp với nguyện vọng của nhân dân.

Những đảm bảo cho hoạt động của đại biểu: Các đại biểu có một số đặc quyền: Ngoài lương cao và các điều kiện vật chất ưu đãi để đảm bảo cho đời sống và hoạt động, nhìn chung ở các nước, đại biểu quốc hội còn có quyền bất khả xâm phạm, quyền tự do chính kiến, quyền từ chối cung cấp bằng chứng (khi cơ quan điều tra, tòa án điều tra mình).

+ Khả năng kiềm chế và đối trọng của Quốc hội với các quyền khác

Đây là một nguyên tắc và chức năng của các thể chế quyền lực trong các nước dân chủ nghị trường. Nguyên tắc này nhằm làm cho quyền lực nhà nước được kiểm soát, kiềm chế, tránh được lạm dụng quyền lực, hoặc tuyệt đối hóa quyền lực.

Kiềm chế của Quốc hội đối với ngành hành pháp:

Nói chung, Quốc hội các nước đều có những quyền sau đối với ngành hành pháp.

(1) Quyết định phê chuẩn dự chi ngân sách Nhà nước.

(2) Chất vấn, giám sát, thậm chí luận tội các quan chức hành pháp, kể cả tổng thống.

(3) Phê chuẩn nhân sự nội các và thẩm phán tòa án tối cao do người đứng đầu Chính phủ đệ trình.

(4) Phê chuẩn các hiệp ước mà chính phủ ký với nước ngoài.

(5) Bác bỏ phủ quyết của người đứng đầu hành pháp đối với các dự luật.

(6) Kết tội và truất quyền của các công chức hành chính, kể cả tổng thống trong trường hợp phạm tội.

Đối với ngành tư pháp:

Với tư cách là cơ quan đại diện cho nhân dân, thực thi quyền lực của nhân dân, ngành lập pháp phải có phương tiện để ngăn chặn sự sai trái của các thẩm phán, kiểm soát được sự công minh của ngành tư pháp.

Ngành lập pháp có quyền:

(1) Quyết định quy mô của tòa án tối cao, các tòa án cấp dưới.

(2) Nghị viện có quyền phê chuẩn đề cử thẩm phán của người đứng đầu chính phủ hoặc đứng đầu nhà nước.

(3) Quốc hội có thể kết tội một thẩm phán và truất quyền thẩm phán khi thẩm phán đó có hành vi sai trái.

Một số vấn đề đặt ra với thể chế lập pháp:

+ Ở các nước cộng hòa tổng thống

- Quốc hội được giao quyền lực rất lớn, nhưng trên thực tế nó bị sự kiềm chế của ngành hành pháp và tư pháp. Vì vậy nó không hoàn toàn thực hiện được các ý tưởng chính trị của mình, và cũng khó dẫn tới tình trạng chuyên quyền và lạm quyền.

+ Ở các nước cộng hòa đại nghị

Hạn chế chính là quốc hội tìm cách khống chế chính phủ, thường xuyên nảy sinh bất đồng giữa chính phủ và quốc hội (Quốc hội của đảng đa số, đảng đa số cử ra chính phủ) thực chất là bất đồng giữa hai nhóm khác nhau của một đảng cầm quyền. Để giải quyết bất đồng người ta thường áp dụng thể thức giải tán nghị viện, thể thức này gây tốn kém cho việc bầu cử lại, nhưng nhiều khi không thay đổi được tình hình.

Một số nét về cơ quan lập pháp ở các nước XHCN:

Ở các nước XHCN trước đây, cơ quan lập pháp có thể có nhiều tên gọi khác nhau (Quốc hội, Hội nghị đại biểu nhân dân, Xô viết tối cao và Xô viết cộng hòa...) đều là các cơ quan quyền lực nhà nước và tổ chức theo mô hình xô viết. Mô hình này lúc đầu xuất hiện ở Công xã Pa-ri, sau đó ở Nga (Cách mạng năm 1905). Với tư cách là cơ quan khởi nghĩa vũ trang của công, nông, binh, các Xô viết tổ chức và tập hợp đông đảo nhân dân chống lại giai cấp tư sản và địa chủ trong Cách mạng tháng Hai và Cách mạng tháng Mười 1917.

Sau Cách mạng tháng Mười, các Xô viết trở thành hình thức nhà nước chuyên chính vô sản, đánh dấu bước phát triển mới của các Xô viết. Các Xô viết trở thành cơ quan quyền lực nhà nước. “Các Xô viết vừa là cơ quan quyền lực nhà nước, vừa là một tổ chức xã hội mang tính chất quần chúng nhất, đó là đặc điểm cơ bản của chúng1.

Ở Liên xô, các Xô viết trở thành cơ quan quyền lực duy nhất và đầy đủ từ Trung ương, các nước Cộng hòa liên bang, Cộng hòa tự trị cho đến các địa phương, tạo thành hệ thống quyền lực của nhà nước Xô viết. Trong hệ thống này, Xô viết tối cao Liên xô là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất. Xô viết tối cao Liên xô, Xô viết tối cao các nước Cộng hòa liên bang và Cộng hòa tự trị lập ra Hội đồng bộ trưởng Liên xô. Hội đồng bộ trưởng các nước Cộng hòa liên bang và Cộng hòa tự trị, các Xô viết địa phương lập ra các Ban chấp hành (Ủy ban nhân dân). Các cơ quan chấp hành từ Hội đồng bộ trưởng Liên xô, Hội đồng bộ trưởng các nước Cộng hòa liên bang, Cộng hòa tự trị, các Ủy ban nhân dân phải chịu trách nhiệm và báo cáo trước các cơ quan quyền lực (các Xô viết).

Các cơ quan quyền lực nhà nước (các Xô viết) được tổ chức theo nguyên tắc tập trung dân chủ, thống nhất quyền lực. Các Xô viết, kể cả Xô viết tối cao, vừa là cơ quan lập pháp, vừa là cơ quan hành pháp. Các đại biểu Xô viết vừa là người tham gia các kỳ họp (hình thức hoạt động cơ bản của đại biểu xô viết) để thảo luận và ra quyết định, đồng thời tự thực hiện các quyết định đó. Các đại biểu xô viết hoạt động theo nguyên tắc ủy quyền, mệnh lệnh, thường xuyên báo cáo trước cử tri. Cử tri có quyền bãi miễn đại biểu trước thời hạn, nếu đại biểu mất tín nhiệm.

Mô hình tổ chức cơ quan quyền lực nhà nước theo kiểu các Xô viết đước áp dụng ở hầu hết các nước XHCN trước đây.

Hệ thống này cũng bộc lộ những hạn chế nhất định và đặt ra những yêu cầu phải đổi mới. Đó là hệ thống phức tạp của nhiều nấc bầu cử đại biểu từ Xô viết địa phương đến Xô viết tối cao làm cho ý chí của nhân dân bị “khúc xạ”. Các đại biểu không đủ thời gian và phương tiện để đảm bảo vừa hoàn thành nhiệm vụ đại biểu vừa quản lý nhà nước; sự trùng lấn va chồng chéo chức năng trong việc thực hiện các chức năng lập pháp, hành pháp, tư pháp…

b. Cơ quan hành pháp

- Chức năng:

Hành pháp là một trong 3 nhánh quyền lực của Nhà nước. Nó có chức năng chủ yếu là thực thi pháp luật và quản lý hành chính nhà nước (lập quy).

- Cơ cấu tổ chức cơ quan hành pháp:

Cơ cấu tổ chức cơ quan hành pháp phụ thuộc vào mô hình nhà nước, cộng hòa tổng thống hay cộng hòa đại nghị. Đối với các nước cộng hòa tổng thống, đứng đầu thể chế hành pháp là tổng thống (điển hình là Mỹ). Ở các nước cộng hòa đại nghị (Đức, Italia...) thì đứng đầu hành pháp là thủ tướng. ở các nước này tổng thống giữ chức năng đại diện cho quốc gia.

Ở Mỹ, Tổng thống Mỹ do dân bầu trực tiếp với nhiệm kỳ 4 năm.

Ở các nước cộng hòa đại nghị, thủ tướng đứng đầu quyền hành pháp, được nghị viện bầu. Thông thường thủ tướng là người của đảng đa số hoặc một liên minh đa số trong nghị viện.

Ở các nước có mô hình hỗn hợp (Pháp) tổng thống cũng được bầu trực tiếp.

Trong chế độ cộng hòa tổng thống Nghị viện không thể bỏ phiếu bất tín nhiệm tổng thống (tổng thống toàn dân tín nhiệm). Tổng thống cũng không được giải tán nghị viện.

Ở các nước này, Tổng thống là trung tâm quyền lực của nhà nước, quyền hành pháp hoàn toàn thuộc về Tổng thống. Tổng thống có quyền:

- Quyết định mọi chính sách, đường lối chính trị của chính phủ, định hướng đường lối đối nội, đối ngoại của quốc gia.

- Có quyền quyết định sử dụng, bãi miễn các thành viên nội các - các bộ trưởng, các quan chức cao cấp khác của chính phủ.

- Có quyền thay mặt chính phủ ký kết các điều ước các hiệp định với nước ngoài.

- Thống soái các lực lượng vũ trang, quyền chỉ huy quân sự cao nhất.

- Ký ban bố các luật, mệnh lệnh hành chính có hiệu lực pháp lý.

Các thành viên nội các không cố định, có thể thay đổi do Tổng thống. Các thành viên Nội các không đồng thời là thành viên nghị viện. Nội các là cơ quan giúp việc của Tổng thống, chịu trách nhiệm trước Tổng thống.

Bộ máy công chức được coi là kết cấu hạ tầng của ngành hành pháp. Bộ máy công chức không chỉ đóng vai trò quan trọng trong thực thi nhiệm vụ mà là còn là một yếu tố ngăn cản sự lạm quyền của giới lãnh đạo chính trị. Bộ máy công chức được lựa chọn theo hai cách:

- Sự bổ nhiệm các nhà chính trị (bầu cử).

- Tuyển chọn những người chuyên nghiệp.

Sự lựa chọn này vừa đảm bảo trao cho những người có uy tín với nhân dân, vừa trao cho những người có trình độ chuyên môn kỹ thuật cần thiết cho sự quản lý nhà nước.

Như vậy trong hệ thống hành chính của nhiều nước có hai phạm trù công chức cơ bản: a) Quan chức chính trị; b) Công chức thường xuyên. Quan chức chính trị có thể thay đổi theo sự thay đổi của Chính phủ. Nó giúp cho việc thích nghi, chuyển hướng chính trị kịp thời của bộ máy, còn công chức thường xuyên đảm bảo sự ổn định, thực hiện những nhiệm vụ cố định có tính kỹ thuật của bộ máy hành chính đã được pháp quy hóa. Vấn đề là phải giải quyết tốt mối quan hệ giữa 2 phạm trù công chức này.

Cơ cấu Chính phủ

Ở các nước cộng hòa tổng thống, ngoài Tổng thống còn có các bộ, các trung tâm, các ủy ban điều hành độc lập, văn phòng điều hành của Tổng thống và nội các.

Các bộ trưởng chịu trách nhiệm trước Tổng thống về công việc mà họ quản lý, về chính sách của chính quyền. Ngoài ra các bộ trưởng còn phải quan tâm đến những yêu cầu của Quốc hội, cơ quan phê chuẩn họ. Các nhóm áp lực, lobby cũng có ảnh hưởng đến các bộ trưởng.

Ở các chính phủ liên bang còn có cơ quan hành chính tiểu bang.

Tổng thống điều hòa phối hợp hoạt động các bộ và cơ quan ngang bộ nhằm tạo ra sự nhất quán khi hoạch định và thực thi các chính sách.

Tổng thống có đặc quyền hành pháp, các quyền này được bảo vệ, giữ bí mật và không bị kiểm soát bởi bất cứ cơ quan tổ chức nào.

Chính phủ ban hành các văn bản quy phạm pháp luật khác nhau nhằm triển khai thực hiện các đạo luật đã được nghị viện thông qua và quản lý hành chính nhà nước.

Ở các nước có mô hình cộng hòa đại nghị thì người đứng đầu ngành hành pháp, thủ tướng là lãnh tụ của một đảng hoặc liên minh chính trị chiếm đa số trong nghị viện, được nguyên thủ quốc gia (tổng thống) chỉ định thành lập nội các.

Thủ tướng là trung tâm quyền lực của nhà nước,đứng đầu chính phủ, đảm nhiệm những chức năng nhiệm vụ cơ bản như tổng thống trong chế độ cộng hòa tổng thống.

Nội các đại diện cho nguyên thủ quốc gia thực thi quyền hành pháp, chịu trách nhiệm trước nghị viện. Nếu nghị viện bỏ phiếu không tín nhiệm thì nội các phải từ chức, hoặc trong trường hợp ấy, chính phủ đề nghị nguyên thủ quốc gia giải tán nghị viện để dân bầu lại.

Trong mô hình hỗn hợp giữa cộng hòa tổng thống và cộng hòa đại nghị, (điển hình là Pháp), Tổng thống là nguyên thủ quốc gia. Chính phủ do Thủ tưởng đứng đầu (từ đảng đa số trong nghị viện) do Tổng thống bổ nhiệm.

Trong các nước cộng hòa đại nghị, Chính phủ phải được sự ủng hộ của đa số trong Nghị viện. Nếu không, Chính phủ phải từ chức, hoặc nguyên thủ quốc gia phải giải tán Nghị viện.

Về cơ quan hành pháp ở một số nước XHCN

Từ năm 1936, cùng với sự đổi mới cơ quan quyền lực nhà nước, mà biểu hiện rõ nhất là ở tổ chức và hoạt động của các Xô viết tối cao Liên xô, Hội đồng dân ủy đổi thành Hội đồng bộ trưởng. Đây thực chất là Chính phủ Liên Xô. Mô hình này được áp dụng ở hầu hết các nước thuộc hệ thống XHCN trước đây.

Hội đồng bộ trưởng do cơ quan quyền lực tối cao (Xô Viết tối cao, Quốc hội, Đại hội đại biểu nhân dân...) lập ra và là cơ quan chấp hành cao nhất của cơ quan này, thực hiện chức năng quản lý nhà nước của Xô viết tối cao Liên xô.

Ở Trung Quốc, Quốc vụ viện là Chính phủ Trung ương, Thủ tướng còn gọi là thủ tướng Quốc vụ viện.

Ở CHDCND Triều Tiên Chính phủ được gọi Chính vụ viện.

Nhìn chung hoạt động, tổ chức của chính phủ các nước XHCN đang có nhiều vấn đề tồn tại, hiệu quả hoạt động thấp, đặt ra yêu cầu cải cách đổi mới.

+ Quyền kiềm chế và đối trọng của thể chế hành pháp đối với các thể chế khác

Thông qua một số quyền hạn và nhiệm vụ được Hiến pháp thừa nhận, cơ quan hành pháp tác động gây ảnh hưởng đối với quốc hội:

- Ở các nước cộng hòa tổng thống (Mỹ), tổng thống có quyền phủ quyết đối với các đạo luật mà Quốc hội đã thông qua có quyền gửi thông điệp của Tổng thống cho Quốc hội, trong đó chứa đựng nội dung các dự án luật do Tổng thống đề nghị.

- Quyền đưa ra sáng kiến lập pháp.

- Quyền sáng kiến về luật ngân sách.

- Yêu cầu triệu tập họp Quốc hội bất thường.

Đối với ngành tư pháp, ngành hành pháp đề cử bổ nhiệm thẩm phán các tòa án.

- Tác động thông qua quá trình thi hành án.

c. Cơ quan tư pháp

Cơ quan tư pháp hay là ngành tư pháp là một trong ba thể chế quyền lực quan trọng của nhà nước.

Cơ quan tư pháp có các chức năng sau:

(1) Bảo vệ hiến pháp và pháp luật thông qua các hoạt động xét xử mọi hành vi vi phạm hiến pháp và pháp luật.

(2) Giải thích hiến pháp, pháp luật.

(3) Phối hợp hoạt động với các ngành khác (trong đó cả giám sát, kiềm chế...).

Thẩm quyền: Xét xử và định hướng xét xử.

Khi bảo vệ hiến pháp và pháp luật, ngành tư pháp cũng chỉ dựa vào pháp luật, không được vượt ra ngoài khuôn khổ pháp luật. Tư pháp xét xử phải công minh. Đây là một đòi hòi rất cao, khi trong xã hội có nhiều nhóm lợi ích khác nhau, có thế lực khác nhau, hiểu, thực thi pháp luật khác nhau, thậm chí vi phạm cũng bằng các cách khác nhau. Nhất là khi các cơ quan nhà nước như quốc hội, chính phủ, tổng thống... vi phạm pháp luật thì việc xét xử cực kỳ khó khăn.

Ở nhiều nước, việc giải thích pháp luật không được ghi thành một chức năng chính thức. Nhưng qua thực tế xét xử, ngành tư pháp khách quan đã đảm nhiệm chức năng này. Bởi vì để xét xử được, tư pháp phải hiểu, những điều luật rất chung, giải thích luật, áp dụng luật như thế nào... Hành vi giải thích tư pháp này còn có một chức năng phái sinh nữa là giáo dục pháp luật. Ở một số nước, ngành tư pháp còn bao gồm cả kiểm sát việc thực hiện pháp luật của nhà nước và công dân. Ở những nước đó, về tổ chức, ngành tư pháp ngoài hệ thống tòa án, còn có cả viện kiểm sát.

+ Cơ cấu tổ chức của ngành tư pháp: Đó là hệ thống tòa án. Nói chung ở các nước đều có tòa án tối cao, tòa án địa phương, tòa án lưu động, tòa trọng tài, tòa đặc biệt xét xử theo hai cấp sơ thẩm, phúc thẩm. ở các nước có kết cấu liên bang, ngoài hệ thống tòa án liên bang, còn có hệ thống tòa án tiểu bang.

Quan hệ giữa hai hệ thống tòa án Liên bang và tiểu bang là phản ánh mối quan hệ giữa hai hệ thống pháp luật Liên bang và tiểu bang. Mối quan hệ này thể hiện sự phân quyền giữa Liên bang và tiểu bang và tính tối cao của pháp luật Liên bang

+ Thẩm quyền kiềm chế và đối trọng quyền lực (Đối với các cơ quan lập pháp và hành pháp).

Đối với cơ quan lập pháp

Ngành tư pháp có thể hoạt động để hạn chế sự độc quyền hoặc vượt qua giới hạn ủy quyền của nhân dân, ngành tư pháp có quyền xem xét và công bố những đạo luật mà quốc hội thông qua là những đạo luật không có hiệu lực pháp luật, nếu nó trái với tinh thần hiến pháp.

Đối với cơ quan hành pháp

Ở các nước cộng hòa tổng thống, tổng thống và quyền hành pháp được hiến pháp trao cho rất nhiều quyền lực và có xu hướng còn tăng lên. Đó là nguy cơ dẫn đến độc quyền và lạm quyền. Để kiềm chế khả năng này, hiến pháp trao cho ngành tư pháp ở Mỹ, ở Nga và một số nước khác quyền cảnh báo tổng thống hoặc cơ quan hành pháp về việc họ đang vượt quá giới hạn pháp luật. Ngành tư pháp cũng có thẩm quyền ban hành các bản án, quyết định chống lại các cơ quan cụ thể của ngành hành pháp nếu họ vi phạm pháp luật, kể cả luận tội tổng thống.

Ngoài ra ngành tư pháp còn có nhiệm vụ giám sát các hoạt động của các thể chế khác, nhằm bảo vệ Hiến pháp và pháp luật.

Các yếu tố đảm bảo cho sự công minh của thẩm phán

- Nhiệm kỳ suốt đời. Ở một số nước, như ở Mỹ chẳng hạn, các thẩm phán chỉ bị cách chức nếu bị kết tội phản quốc, nhận hối lộ hay phạm các tội nghiêm trọng khác.

- Thẩm phán được bổ nhiệm chứ không bầu, vì cho rằng bầu cử buộc các thẩm phản tương lai phải lấy lòng dân chúng, không công bằng, tốn kém, sẽ bị tác động bởi các đảng, các thế lực khác... Hơn nữa, thẩm phán là những người cần phải hiểu luật pháp hơn là được cử tri tín nhiệm.

- Thu nhập cao. Hiến pháp nhiều nước quy định các thẩm phán có thu nhập rất cao và được bảo đảm khỏi bị ảnh hưởng của biến động thị trường.

- Về thi hành án. Thi hành án thuộc về ngành hành pháp. Nếu như ngành hành pháp không thiện chí thi hành, thì Tòa án có quyền tuyên bố các cá nhân tổ chức của ngành hành pháp vi phạm pháp luật.

Ngoài những yếu tố trên HTCT các nước luôn tạo điều kiện cho ngành tư pháp hoạt động độc lập.

Những đối trọng đối với ngành tư pháp

Để đảm bảo cho sự công minh của ngành tư pháp phải có sự can thiệp kiềm chế của ngành lập pháp và hành pháp.

Lập pháp có quyền phê chuẩn việc bổ nhiệm thẩm phán của Tổng thống hoặc người đứng đầu nhà nước, có quyền cách chức thẩm phán, có quyền ban hành luật để làm mất hiệu lực các bản án, cấp kinh phí để thi hành án. Ngành hành pháp (như trên đã nói, đề cử bổ nhiệm thẩm phán, thi hành án...).

Ngoài ra còn các nhóm áp lực như các đảng và dư luận nhân dân, cũng có tác động rất lớn đối với sự công minh của ngành tư pháp.

Ở Nga, hệ thống tòa án bao gồm Tòa án hiến pháp, Tòa án tối cao, Tòa trọng tài tối cao và Viện kiểm sát tối cao. Tất cả các cơ quan này đều có hệ thống cơ quan Trung ương và địa phương.

  1. Chính quyền địa phương

Sự cần thiết phải tổ chức chính quyền địa phương

Một trong những đặc trưng cơ bản của nhà nước – theo Ph. Ăngghen là ở chỗ “nó phân chia thần dân của nó theo địa vực v.v. người ta lấy sự phân chia địa vực làm điểm xuất phát và người ta đã để cho những công dân thực hiện những quyền lợi và nghĩa vụ của họ tại nơi họ cư trú, không kể họ thuộc thị tộc nào và bộ lạc nào. Cách tổ chức những công dân của nhà nước theo địa vực họ cư trú như thế, là một đặc điểm chung của tất cả các nhà nước”[4] [8, tr 253]. Vì vậy, để quyền lực nhà nước “bao trùm”, “trải rộng” trên toàn bộ địa vực cư trú (lãnh thổ) và thực thi có hiệu lực, hiệu quả, cần phải phân chia thành các địa vực (các cấp) để thực hiện. Việc tổ chức ra các đơn vị hành chính – lãnh thổ là cần thiết.

 Tuy mỗi quốc gia có hình thức tổ chức và thực thi quyền lực nhà nước khác nhau, có thể theo hình thức liên bang hoặc hình thức đơn nhất, nhưng cho dù theo hình thức tổ chức nào cũng đều có sự phân chia các đơn vị hành chính – lãnh thổ, và theo đó là các cấp chính quyền địa phương.

Chính quyền địa phương có thể được hiểu là cơ quan dân cử và cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương, được thành lập bởi pháp luật quốc gia, nhằm thực hiện chức năng quản lý nhà nước theo sự phân cấp, phân quyền của cơ quan nhà nước ở trung ương, ra quyết định và tổ chức thực hiện các công việc của địa phương trong khuôn khổ pháp luật chung, phục vụ mục đích phát triển của mỗi địa phương, góp phần vào sự phát triển chung của quốc gia.

Trên thế giới, hầu hết các quốc gia đều có sự phân chia các đơn vị hành chính (trừ một số trường hợp như Nauy, Tylu, quốc gia – thành phố Singgapore, nhà nước – tôn giáo Vaticăn v.v.).

Vấn đề xác định các đơn vị hành chính và các cấp chính quyền địa phương phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố, nhưng theo xu hướng chung của các nước trên thế giới hiện nay có các yếu tố chính, đó là: kết cấu cộng đồng dân cư; địa – văn hoá; địa – kinh tế; địa – quân sự; địa – chính trị v.v.. Như vậy, mỗi đơn vị hành chính đều có qui mô dân số, đất đai và điều kiên tự nhiên, chính trị, xã hội nhất định.

Các đơn vị hành chính và địa giới hành chính trong một quốc gia chỉ là sự phân chia tương đối, bởi vì nó đều nằm trong một quốc gia thống nhất về chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ.  Tuy tính độc lập và mức độ tự quản của cấp chính quyền địa phương ở mỗi quốc gia có khác nhau, nhưng đều có một điểm chung nhất là các cấp chính quyền địa phương nằm trong một hệ thống hành chính nhà nước thống nhất dưới sự quản lý vĩ mô của cơ quan hành chính nhà nước cao nhất – Chính quyền trung ương.

Các đơn vị hành chính và địa giới hành chính ở các quốc gia đều mang tính tương đối ổn định lâu dài, ít xáo trộn, nhằm duy trì và phát triển mối quan hệ cộng đồng, nâng cao tinh thần đoàn kết hợp tác, quyết định trực tiếp sự ổn định và hiệu lực, hiệu quả thực thi quyền lực nhà nước của chính quyền địa phương, góp phần quan trọng vào sự ổn định và phát triển kinh tế, xã hội của mỗi quốc gia.

Tổ chức quyền lực nhà nước ở địa phương, ngày nay được tiến hành theo những xu hướng sau:

- Quá trình “phi tập trung hoá” (Decentralization), tức là dỡ bỏ một số quyền lực hoặc sự kiểm soát tập trung đối với nhiều lĩnh vực khác nhau của nhà nước trung ương, chuyển cho chính quyền địa phương. Quá trình này được diễn ra ở nhiều hình thức khác nhau: phi tập trung hoá theo lãnh thổ, phi tập trung hoá theo chức năng, phi tập trung hoá theo chính trị và hành chính, phi tập trung hoá tài chính v.v…Quá trình phi tập trung hoá được diễn ra dưới các hình thức: “phân quyền”, “tản quyền” hoặc “phân cấp”.

Những căn cứ để tổ chức và thực thi quyền lực nhà nước ở địa phương

Việc phân cấp, phân quyền trong thực thi quyền lực nhà nước ở địa phương đều dựa trên những căn cứ nhất định:

Trước hết: Chế độ nhà nước.

- Theo hình thức cấu trúc: là nhà nước liên bang hay nhà nước đơn nhất.

- Theo hình thức chính thể: cộng hoà tổng thống, cộng hoà đại nghị hay cộng hoà hỗn hợp; tập quyền hay phân quyền…

- Theo chế độ nhà nước: dân chủ hay chuyên chế.  

Thứ hai: Cơ sở kinh tế.

Trên phương diện lý luận cũng như thực tiễn, mô hình kinh tế quyết định không chỉ mô hình tổ chức bộ máy nhà nước, mà còn quyết định vài trò, chức năng, quyền hạn, trách nhiệm của cả bộ máy nhà nước nói chung và của mỗi cấp chính quyền địa phương nói riêng.

Mô hình kinh tế kế hoạch hoá tập trung và bao cấp đã đặt nhà nước trung ương vào vị trí trung tâm của đời sống kinh tế với vai trò vừa là một tổ chức công quyề, một bộ máy chính trị vừa là một tổ chức kinh tế có ý nghĩa quyết định các quan hệ kinh tế, các quá trình kinh tế. Do vậy, vai trò tích cực, sáng tạo của chính quyền địa phương không được phát huy đầy đủ.

Mô hình kinh tế thị trường có xu hướng thu hẹp phạm vi, mức độ hoạt động của bộ máy nhà nước. Nền kinh tế thị trường đặt nhà nước vào các mối quan hệ quy định lẫn nhau giữa nhà nước thị trường và xã hội công dân trong tổng thể các mặt, các lĩnh vực quan hệ xã hội. Ở mô hình kinh tế này, chức năng, thẩm quyền của bộ máy nhà nước kể cả ở trung ương và ở địa phương đều được cơ cấu lại theo đúng nghĩa với chức năng, thẩm quyền và trách nhiệm của một cơ quan công quyền trong đời sống xã hội.

- Thứ ba: Cơ sở văn hoá - xã hội của mỗi vùng lãnh thổ.

 Mỗi một cấp chính quyền địa phương đều được xác lập trên một phạm vi lãnh thổ nhất định. Quy mô lãnh thổ không chỉ đòi hỏi một cấu trúc tổ chức chính quyền phù hợp mà còn đòi hỏi một năng lực quản lý điều hành tương ứng.

Mặt khác, mật độ dân cư, cơ cấu, tính chất, đặc điểm về kinh tế, văn hoá, tâm lý, truyền thống của các cộng đồng dân cư trong từng địa bàn lãnh thổ cũng đòi hỏi mỗi một cấp chính quyền phải có cơ cấu tổ chức và các thẩm quyền phù hợp.

Đối với các quốc gia đa dân tộc (tộc người) việc phân cấp, phân quyền cần chú trọng đến yếu tố tộc người để đảm bảo sự đoàn kết hòa hợp dân tộc.

Mỗi vùng trong một lãnh thổ quốc gia, tuy nhỏ đến đâu đều có những nét lịch sử riêng của nó. Do đó, việc tổ chức chính quyền địa phương phải vừa tôn trọng những đặc điểm lịch sử vừa đảm bảo sự toàn vẹn lãnh thổ quốc gia.

- Thứ tư: Căn cứ vào tính hiệu lực, hiệu quả trong thực thi quyền lực nhà nước.

Tính hiệu lực, hiệu quả yêu cầu phân cấp, phân quyền phải dựa trên căn cứ cấp nào đảm nhận công việc có hiệu quả hơn thì giao cho cấp đó, xác định mỗi cấp chính quyền địa phương cần bao nhiêu quyền để hoạt động cho phù hợp. 

Kết luận: Phương thức tổ chức quyền lực nhà nước ở mỗi nước khác nhau có thể có những mô hình, cấu trúc, vận hành khác nhau. Vì thế về phương thức tổ chức quyền lực nhà nước không những có những quan niệm khác nhau mà còn có cách tổ chức và vận hành khác nhau. Mặc dù vậy, vấn đề phương thức tổ chức quyền lực nhà nước vẫn bị chi phối bởi những quy luật chung, có tính phổ biến, nếu không tuân thủ những yếu tố đó không thể hiểu các nhà nước cụ thể được.

Nghiên cứu phương thức tổ chức quyền lực nhà nước có ý nghĩa to lớn, nó không chỉ cho phép chúng ta nắm được bản chất phương thức tồn tại và hoạt động của các nhà nước hiện nay, mà nó còn cung cấp những căn cứ lý luận và thực tiễn để góp phần vào việc đổi mới và hoàn thiện nhà nước ở nước ta, theo hướng xây dựng một nhà nước pháp quyền của dân, do dân, vì dân, dưới sự lãnh đạo của Đảng.

CÂU HỎI TRƯỚC KHI NGHE GIẢNG

  1. Anh/ chị quan niệm thế nào là nhà nước ? Hãy thống kê các định nghĩa, các quan niệm khác nhau về nhà nước!
  2. Anh/ chị có suy nghĩ gỡ về những khái niệm sau: kiểu nhà nước, hình thức nhà nước, hình thức chính thể, chế độ nhà nước…?
  3. Theo anh/ chị nên tổ chức bộ máy nhà nước như thế nào để nhà nước hoạt động có hiệu lực hiệu quả?

CÂU HỎI THẢO LUẬN

  1. Phân tích bản chất và hình thức của nhà nước !
  2. Nêu những mô hình tổ chức nhà nước theo hình thức chính thể trên thế giới. Phân tích những ưu điểm và nhược điểm của các mô hình đó.
  3. Nhà nước pháp quyền là một kiểu nhà nước hay là một phương thức tổ chức nhà nước ?

CÂU HỎI ÔN TẬP

  1. Phân tích chức năng chính trị và chức năng xã hội của nhà nước!
  2. Cấu trúc của nhà nước gồm những bộ phận nào? Vì sao?
  3. Bản chất và chức năng của nhà nước ?

TÀI LIỆU THAM KHẢO  

  1. Nguồn gốc của gia đình, của chế độ tư hữu và của nhà nước. (Mác - Ăngghen toàn tập, tập 21. CTQG, H 1995).
  2. Bàn về quyền uy. (Mác - Ăngghen toàn tập, tập 18. CTQG, H 1995).
  3. Nhà nước và cách mạng. (V.I.Lênin toàn tập - T33. ST, H 1987).
  4. Đại học Harvard. Quyền lực tầm ảnh hưởng và sức thuyết phục. Nxb. Tổng hợp Tp. Hồ Chí Minh. 2006.
  5. Ken Blanchard và Michael O’connoor. Quản lý bằng giá trị. Nxb. Trẻ. Tp. Hồ Chí Minh. 2006


[1]  Là loại quyền lực chung của bất kỳ cộng đồng xã hội nào.

[2] Trường ca “Lao động và ngày tháng” của Ghêxioot, Thế kỷ thứ VIII – VII TCN (Dẫn theo: Lịch sử các học thuyết chính trị trên thế giới, bản dịch của Lưu Kiếm Thanh, Nxb Văn hóa thông tin, Hà nội, 2001, tr.70).

[3] C.Mác, Ph. Ăngghen, Tuyển tập, T.6, Nxb Sự thật, H, 1984, tr. 263-264.

1 Chủ nghĩa Cộng sản khoa học, Từ điển, NXB tiến bộ Mát cơ va – NXB Sự thật Hà nội, 1986, Tr. 429.

[4] C.Mác và Ph.Ăng-ghen, Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, H 1995, t.21. tr. 253

Phản hồi

Người gửi / điện thoại

Nội dung

 
01-03-2021

Đánh giá

images5342607_my_video_moi3
ba_sche57b288a-ab22-4b92-a4a5-0f3b2fd4cdeb85e2ebd4-b773-4e04-8350-ade5b8771f57
image001
Lượt truy cập
Đang truy cập: 3
Trong ngày: 100
Trong tuần: 672
Lượt truy cập: 377678
Lên đầu trang