Đăng ký | Đăng nhập

Email / Điện thoại

Mật khẩu

Nhớ mật khẩu | Quên mật khẩu

588030_87d9a

CHÍNH TRỊ HỌC

Chinhtrihoc.vn là website cá nhân của GS.TSKH Phan Xuân Sơn. Trang chinhtrihoc.vn là một trang web khoa học, nơi kết nối các nhà khoa học, những ai yêu thích, tâm huyết với việc nghiên cứu khoa học chính trị. Trang web ra đời nhằm góp phần vào sự phát triển khoa học chính trị nước nhà nói riêng, sự phát triển đất nước nói chung. Trang web được đăng ký và hoạt động theo pháp luật nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Chỉ các thành viên mới được đăng bài. Chịu trách nhiệm nội dung: GS.TSKH Phan Xuân Sơn. Hỗ trợ web: KS.CNTT Phạm Thị Ngọc Thanh ☏ 0866772894

TƯ TƯỞNG, ĐẠO ĐỨC, PHONG CÁCH HỒ CHÍ MINH BIỂU HIỆN QUA TẬP THƠ NHẬT KÝ TRONG TÙ

TƯ TƯỞNG, ĐẠO ĐỨC, PHONG CÁCH HỒ CHÍ MINH BIỂU HIỆN QUA TẬP THƠ NHẬT KÝ TRONG TÙ

GS.TSKH Phan Xuân Sơn

Mục lục bài viết

76

1. Bối cảnh lịch sử, hoàn cảnh ra đời tập thơ Nhật ký trong tù của Hồ Chí Minh

Khi nghiên cứu tư tưởng chính trị Hồ Chí Minh, chúng ta thấy, trên con đường cách mạng, tìm tòi con đường cứu dân, cứu nước, tư tưởng chính trị của Hồ Chí Minh có nhiều thay đổi, phát triển, ngày càng tiệm cận hơn với quy luật cách mạng, ngày càng giải đáp rõ ràng hơn những thách thức đặt ra cho cách mạng Việt Nam. Chúng ta nhớ lại, khi không hoàn toàn tán thành cách làm các nhà cách mạng tiền bối, Người quyết định đi sang phương Tây tìm đường cứu nước, Người quyết đi sang Pháp “xem người ta làm thế nào rồi về giúp đồng bào mình”. Những năm bôn ba từ nước Pháp, rồi sang Mỹ, Anh, rồi trở về nước pháp, đắm mình trong đời sống lao động, Người kỳ vọng vào sự giúp đỡ của các cường quốc thắng trận. Và chính Người đã ký tên vào Bản Yêu sách của nhân dân An Nam, gửi tời Hội nghị Véc Xây của các nước thắng trận trong chiến tranh thế giới lần thứ nhất. Tuy nhiên, Bản yêu sách của Người không được hồi âm. Cuộc sống “vàng máu chia hai cảnh khổ giàu” của nhân loại vẫn tiếp tục. Người không còn kỳ vọng gì vào sự giúp đỡ của các nước giàu đối với người dân An Nam mất nước, sống dưới ách thực dân.

Năm 1919, Người gia nhập Đảng Xã hội Pháp. Tuy nhiên, lực lượng cánh tả này cũng không quan tâm đến các dân tộc thuộc địa. Năm 1922 Người tiếp cận được với Luận cương của Lên nin về vấn đề dân tộc và thuộc địa, trong đó Lê nin chỉ rõ rằng, cách mạng giải phóng dân tộc là một bộ phận của cách mạng thế giới, do giai cấp vô sản lãnh đạo. Giai cấp vô sản cần phải làm cách mạng ở chính quốc, và giúp đỡ các dân tộc thuộc địa giải phóng khỏi ách thực dân đế quốc. Đó cũng chính là đường lối cách mạng của Quốc tế cộng sản.Từ đó Người tin theo Lê nin, tin theo Quốc tế thứ III. Người chuyển từ tư tưởng Dân chủ xã hội sang tư tưởng cộng sản chủ nghĩa, tham gia thành lập Đảng cộng sản Pháp. Đây cũng là sự kiện đánh dấu sự kết nối cách mạng Việt Nam với cách mạng thế giới, đặt cách mạng giái phóng dân tộc thành một phàm trù, một bộ phận của cách mạng vô sản toàn thế giới. Trong thập niên 1020-1930, con đường cứu nước của Việt Nam đã có lối ra về chính trị, tư tưởng và tổ chức. Đảng cộng sản Đông Dương ra đời cũng chính là sản phẩm hợp lý, hợp quy luật của thực tiễn cách mạng đó. Chính là sự kết hợp giữa chủ nghĩa Mác – Lên nin, tư tưởng Hồ Chí Minh,  phong trào công nhân và phong trào yêu nước.

Từ năm 1930 đến năm 1945, “Mười lăm năm ấy cũng là thời gian mà Người phải trải qua nhiều gian khổ và cả những đau khổ về thể chất lẫn tinh thần trong cuộc đấu tranh đầy gian truân và hy sinh to lớn của mình. Hai lần bị giam cầm trong xà lim và ngục tù của bọn đế quốc phản động, cả hai lần đều bị ốm nặng và có tin đã chết (!). Trong việc đấu tranh để xác lập và bảo vệ đường lối cách mạng đúng đắn chống mọi khuynh hướng “tả” và hữu trong Đảng ta và trong Quốc tế Cộng sản, Người đã bình tĩnh, sáng suốt, kiên trì giữ vững quan điểm sáng tạo, đúng đắn của mình. Bằng dũng khí và trí tuệ, với sự tế nhị khéo léo, với ý thức tổ chức, kỷ luật, Người đã phấn đấu quyết liệt và bền bỉ để Đảng, do Người sáng lập, đi đúng đường lối mà Cương lĩnh đầu tiên của Đảng đã xác định và ngày càng lớn mạnh. Vì vậy, mới mười lăm tuổi, Đảng đã lãnh đạo thành công Cách mạng Tháng Tám ở một nước thuộc địa nửa phong kiến, đánh đổ các xiềng xích thực dân gần một trăm năm để xây dựng nên nước Việt Nam độc lập và đánh đổ chế độ quân chủ mười mấy thế kỷ mà lập nên chế độ dân chủ cộng hoà.”[1]

Trong 10 năm đầu sau ngày thành lập Đảng cộng sản Đông Dương, hoạt động, Nguyễn Ái Quốc chủ yếu hoạt động ở nước ngoài. Đặc biệt, từ tháng 10 năm 1938, theo nguyện vọng về nước hoạt động và theo sắp xếp của Quốc tế cộng sản, Nguyễn Ái Quốc đến Trung Quốc, tham gia Bát lộ quân, quân hàm thiếu tá với bí danh Hồ Quang.

Trong thời gian hoạt động ở Trung Quốc, (tháng 12 – 1938 đến cuối năm 1940), Nguyễn Ái Quốc viết nhiều bài đăng trên Báo Notre Voix, (Tiếng nói của chúng ta), báo Dân chúng, cơ quan trung ương của Đảng Cộng sản Đông Dương xuất bản ở Sài Gòn.

Trong các bài báo ấy, Người thường ghi “Thư từ Trung Quốc”, chứa đựng những nội dung chủ yếu, phản ánh tư tưởng chính trị của Người ở giai đoạn này, như sau:

Thứ nhất: Người đã phân tích khoa học tình hình đang diễn ra ở Trung Quốc, tố cáo tội ác của phát xít Nhật, nêu cao chủ nghĩa anh hùng của nhân dân Trung Quốc đang chiến đấu cho độc lập dân tộc.

Thứ hai: Nguyễn Ái Quốc làm rõ về chủ nghĩa Tờrốtxki và bọn tờrốtxkít. Không nhầm lẫn, tưởng rằng những người cộng sản và bọn tờrốtxkít là cùng một cánh với nhau. Vạch trần bọn tờrốtkít ở tất cả các nước là tay sai của chủ nghĩa phátxít, là kẻ thù của chủ nghĩa cộng sản, mà còn là kẻ thù của nền dân chủ và tiến bộ.

Thứ ba: Vạch rõ nguy cơ phát xít Nhật chiếm Đông Đương.   

Thứ tư:  Báo cáo gửi Quốc tế cộng sản, bày tỏ lập trưởng thái độ chống phát xít,  

Thứ năm: Cảnh giác với sự cấu kết giữa thực dân Pháp và Tưởng Giới Thạch.

Thứ sáu: Về khẩu hiệu đấu tranh: “Lúc này, Đảng không nên đưa ra những đòi hỏi quá cao (độc lập dân tộc, nghị viện, v.v.). Như thế sẽ rơi vào cạm bẫy của phát xít Nhật”...

Thứ tám: Phải ra sức tổ chức Mặt trận dân tộc dân chủ rộng rãi. Liên hệ chặt chẽ với Mặt trận nhân dân Pháp.

Ngày 20 tháng 6 năm 1940, lúc Người đang ở Côn Minh, sau khi nghe tin Paris bị quân Đức chiếm, Nguyễn Ái Quốc triệu tập cuộc họp. Người phân tích: “Việc Pháp mất nước là một cơ hội rất thuận lợi cho cách mạng Việt Nam. Ta phải tìm mọi cách về nước ngay để tranh thủ thời cơ. Chậm trễ lúc này là có tội với cách mạng”. Ngày 28-1-1941, Người về nước trực tiếp chỉ đạo cách mạng Việt Nam.

Từ ngày 10 đến ngày 19 Tháng 5 năm 1941, Nguyễn Ái Quốc chủ trì Hội nghị lần thứ tám của Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương. Hội nghị xác định nhiệm vụ giải phóng dân tộc là nhiệm vụ cấp thiết của cách mạng Đông Dương lúc bấy giờ: “Trong lúc này quyền lợi của bộ phận, của giai cấp phải đặt dưới sự sinh tử, tồn vong của quốc gia, của dân tộc. Trong lúc này nếu không giải quyết được vấn đề dân tộc giải phóng, không đòi được độc lập, tự do cho toàn thể dân tộc, thì chẳng những toàn thể quốc gia dân tộc còn chịu mãi kiếp ngựa trâu, mà quyền lợi của bộ phận, giai cấp đến vạn năm cũng không đòi lại được”. Theo sáng kiến của Nguyễn Ái Quốc, Hội nghị đã quyết định thành lập Mặt trận dân tộc thống nhất rộng rãi mang tên Việt Nam độc lập đồng minh (gọi tắt là Việt Minh), nhằm liên hiệp hết thảy các giới đồng bào yêu nước không phân biệt giàu nghèo, già trẻ, gái trai, không phân biệt tôn giáo và xu hướng chính trị, đặng cùng nhau mưu cuộc dân tộc giải phóng và sinh tồn. Theo đề nghị của Người, Hội nghị đã bầu Ban Chấp hành Trung ương mới và cử đồng chí Trường Chinh là Tổng Bí thư của Đảng.

Ngày 12 tháng 6-1941, khi phát xít Đức tấn công Liên Xô, Người bày tỏ thái độ dứt khoát và chỉ rõ: “Bọn phát xít đã tấn công Liên Xô, Tổ quốc của cách mạng thế giới, nhưng nhân dân Liên Xô nhất định sẽ chiến thắng. Việt Nam ta cũng đứng ở trong phe dân chủ mới, ủng hộ Liên Xô chống lại phe phát xít”. Dự đoán tình hình thế giới năm 1942, Người cho rằng: “Nga nhất định thắng, Đức nhất định bại. Anh - Mỹ sẽ được, Nhật Bản sẽ thua”. Đó là thời cơ nước ta giành được độc lập, tự do. Vì vậy, mọi người phải chuẩn bị và “mau đoàn kết lại!”.

Tình hình chuyển biến mau lẹ khi Phát xít Đức tấn công Liên Xô (12-6-1941), Liên Xô gia nhập Khối Đồng Minh, cuối năm 1941, Mỹ cũng bỏ tư cách trung lập, đứng về phe Đồng minh, ngày 9 tháng 12 năm 1941, Chính phủ Trung Hoa Dân quốc dưới sự lãnh đạo của Tưởng Giới Thạch, cũng được mời tham gia khối Đồng minh.

Nguyễn Ái Quốc đưa ra nhận định:Đồng minh sẽ thắng. Nhật, Pháp ở Đông Dương chóng chày sẽ bắn nhau. Việt Nam sẽ giành được độc lập. Chiến tranh du kích dần dần phát triển với những vũ khí thô sơ, gươm, giáo mác và một số ít khẩu súng cướp được của giặc...”[2]

Buổi tối, ngày 13 Tháng 8 năm 1942, với tên mới Hồ Chí Minh, Nguyễn Ái Quốc lên đường đi Trung Quốc để liên lạc với các lực lượng cách mạng của người Việt Nam và lực lượng Đồng minh[3]. Sáng sớm, ngày 27 Tháng 8 năm 1942, Hồ Chí Minh lên đường đi Bình Mã, có Dương Đào (người Trung Quốc) cùng đi để dẫn đường. Hai người đến phố Túc Vinh, huyện Thiên Bảo, Quảng Tây thì bị quân tuần cảnh ở trụ sở của Quốc dân Đảng bắt giữ.

Nguyên nhân bị bắt giữ, theo báo cáo của Trương Phát Khuê, Tư lệnh Đệ tứ chiến khu của Quốc dân Đảng lúc đó, là do “tất cả giấy tờ đều đã quá thời hạn sử dụng”. Chúng nghi là gián điệp nên đã bắt giữ.

Trong 13 tháng bị chính quyền Tưởng Giới Thạch giam giữ, chúng đầy ải Người qua gần 30 nhà giam của 13 huyện thuộc tỉnh Quảng Tây, đến ngày 10 tháng 9 năm 1943 mới được thả tự do.

Trong thời gian bị cầm tù, Người đã sáng tác 133 bài thơ và một bài đề từ mở đầu tập thơ (có thể coi là 134 bài) bằng chữ Hán được ghi trong một cuốn sổ tay nhỏ, kích thước 12,5 cm x 9,5 cm, và đặt tên bằng chữ Hán "Ngục trung nhật ký" (Nhật ký trong tù). Sau bài thơ cuối cùng của tập thơ, Người có ghi: Hết 29-8-1942/ 10-9-1943

“Nhật kí trong tù” là một tác phẩm có giá trị lịch sử, văn học, cách mạng to lớn, bởi nó ghi lại bằng thơ hành trình của lãnh tụ Hồ Chí Minh trong 13 tháng lao tù trong nhà tù Tưởng Giới Thạch. Không những thế tập thơ còn phản ảnh những tư tưởng cảm xúc, về các sự kiện chính trị thế giới, thiên nhiên, con người trong thời khắc cực kỷ cay nghiệt của cuộc sống, và qua đó thể hiện được tư tưởng, đạo đức, phong cách, nhân cách, tâm hồn, bản lĩnh của một chiến sĩ cách mạng vĩ đại, trước thách thức của thời cuộc, sự trớ trêu của hoàn cảnh, sự chuyển vần của tự nhiên, sự nóng lạnh của lòng người...

“Giá trị tư tưởng lớn nhất của tập thơ “Nhật kí trong tù” chính là tinh thần, khát vọng tự do, của người chiến sĩ cộng sản.  Cuốn nhật kí bằng thơ này không chỉ là một văn kiện lịch sử vô giá về một giai đoạn hoạt động cách mạng của Nguyễn Ái Quốc- Hồ Chí Minh, mà nó còn là một tác phẩm văn học lớn, là bức chân dung tự họa bằng thơ của người chiến sĩ cộng sản Hồ Chí Minh, với khát vọng tự do, tinh thần và ý chí thép”.[4]

Từ năm 1960tác phẩm này được dịch ra tiếng Việt. Đến nay đã được xuất bản nhiều lần, nhièu thứ tiêng, dưới nhiều hình thức khác nhau, ở trong nước và trên thế giới. Ngày 1 tháng 10 năm 2012Thủ tướng Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã ra quyết định công nhận bảo vật quốc gia cho tác phẩm "Ngục trung Nhật ký".

2. Nhật ký trong tù thể hiện cuộc đấu tranh của một chiến sĩ cách mạng cho một sự nghiệp lớn, liên quan đến vận mệnh của một dân tộc và nhân dân nhiều nước trên thế giới.

Xuyên suốt tập thơ Nhật ký trong tù, ta cảm nhận rõ sự băn khoăn, lo lắng, sốt ruột của một người tù, luôn lo nghĩ đến một sự nghiệp lớn. Sự nghiệp đó nếu chỉ đọc trong tập thơ thì chúng ta cũng chưa thấy rõ được hết. Nhưng nếu như chúng ta hiểu được bối cảnh của tập thơ, thì rất dễ hiểu. Vì vậy ngay bài thơ đề dẫn Người viết:

Thân thể ở trong lao

Tinh thần ở ngoài lao

Muốn nên sự nghiệp lớn

Tinh thần càng phải cao.

(Tiếc ngày giờ)

Vì không được tham gia vào những công việc quan trọng của tổ chức, của Đảng, của đất nước, làm cho một người có trọng trách như Hồ Chí Minh thấy tiếc nuối, cảm thấy sự trớ trêu của hoàn cảnh:

Trời xanh cố ý hãm anh hùng,
Cùm xích tiêu ma tám tháng ròng;
Tấc bóng nghìn vàng, đau xót thực,
Bao giờ thoát khỏi chốn lao lung?

     Giận vì sự trớ trêu của hoàn cảnh, trong lúc thế giới đang rực lửa chiến tranh, tráng sĩ đua nhau ra mặt trận, mà một người lãnh đạo, dẫn dắt phong trào cách mạng Đông Dương đang phải bị giam cầm, không biết ngày nào mới được tự do.

Tráng sĩ đua nhau ra mặt trận,
Hoàn cầu lửa bốc rực trời xanh;
Trong ngục người nhàn nhàn quá đỗi,
Chí cao mà chẳng đáng đồng trinh.

(Buồn bực)

Tuy thân thể ở trong lao, nhưng tinh thần luôn luôn ở ngoài lao, Người không một phút giây quên được công việc cách mạng, vận mệnh đất nước, luôn luôn canh cánh, trằn trọc, có thể nói là ám ảnh. Sự nghiệp cách mạng mà Hồ Chí Minh nhắc đến trong Nhật ký trong tù là sự nghiệp chống thực dân Pháp, phát xít Nhật, chống bọn phản động Trotxkit, chống tư tưởng đầu hàng; đứng về phe dân chủ mới, giải phóng dân tộc. Không những thế, mặc dù thân phận tù đày, nhưng Người vẫn không quên thực hiện đoàn kết, ủng hộ cách mạng thế giới, như ủng hộ Liên Xô, ủng hộ cách mạng Trung Quốc chống Nhật. Sự nghiệp lớn ở đây cũng còn có nghĩa là thời cơ lớn, mà Người đã xác định khi chủ trị Hội nghị Trung ương lần thứ VIII ở Pác Bó, Cao Bằng tháng 5-1941:

 “Trong lúc này quyền lợi của bộ phận, của giai cấp phải đặt dưới sự sinh tử, tồn vong của quốc gia, của dân tộc. Trong lúc này nếu không giải quyết được vấn đề dân tộc giải phóng, không đòi được độc lập, tự do cho toàn thể dân tộc, thì chẳng những toàn thể quốc gia dân tộc còn chịu mãi kiếp ngựa trâu, mà quyền lợi của bộ phận, giai cấp đến vạn năm cũng không đòi lại được”.

Sự nghiệp lớn làm cho Người không chỉ tiếc thời giờ “tấc bóng nghìn vàng đau xót thực”, mà là những đêm trằn trọc, băn khoăn không thể ngủ:

Một canh… hai canh… lại ba canh,
Trằn trọc băn khoăn, giấc chẳng thành;
Canh bốn, canh năm vừa chợp mắt,
Sao vàng năm cánh mộng hồn quanh.

(Không Ngủ Được)

     Sự nghiệp lớn là sứ mệnh mà người phải lặn lội đi ngược trở lại con đường năm trước trở về Tổ quốc bất chấp hiểm nguy. Đó là liên lạc với các lực lượng cách mạng quốc tế, tìm kiếm sự ủng hộ của họ đối với sự nghiệp cách mạng Việt Nam.

Ta là đại biểu dân Việt Nam,
Tìm đến Trung Hoa để hội đàm;
Ai ngỡ đất bằng gây sóng gió,
Phải làm “khách quý” tại nhà giam!

(Đường đời hiểm trở)

3. Nhật ký trong tù toát lên một Tình yêu Tự do, khát vọng Tự do, là Thiên sứ của Tự do, đang đấu tranh cho Tự do, hình thành chân lý “Không có gì quý hơn Độc lập, Tự do”.

Sinh ra và lớn lên ở một đất nước bị tước mất độc lập, tự do, suốt đời đấu tranh cho độc lập, tự do, đặc biệt là khi bản thân bị giam cầm, thêm một lần trải nghiệm bởi sự “mất tự do”, làm cho khát vọng tự do trong tư tưởng của Hồ Chí Minh càng cháy bỏng, tinh thần đấu tranh cho tự do càng mãnh liệt hơn bao giờ hết. “Tự do” trong tư tưởng Hồ Chí Minh nói chung, trong Nhật ký trong tù nói riêng, mang nhiều giá trị. Từ triết học, chính trị học, cho đến triết lý nhân sinh, nguyên tắc sống của con người, của cộng đồng, của dân tộc. Trong 134 bài thơ của Nhật ký trong tù, Người viết 12 lần về “Tự do”[5]. Tự do trong Nhật ký trong tù vừa phản ảnh tình cảnh bị giam cầm thực tế đối với một chiến sĩ cách mạng đang đấu tranh cho tự do, mặt khác phản ảnh lý tưởng tự do, độc lập của một dân tộc đang chịu thân phận nô lệ. Tự do trong tư tưởng Hồ Chí Minh nói chung, trong Nhật ký trong tù nói riêng, mang ý nghĩa Thiên sứ, có tính chân lý. Từ khi còn rất trẻ Người đã muốn khám phá những gì đằng sau những chữ “tự do”, “bình đẳng”, “bác ái” và trong Nghị quyết Hội nghị Trung ương lần thứ VIII, đã thể hiện tinh thần đòi được “độc lập tự do”. Sau này, trong Tuyên ngôn độc lập, Người cũng đã viết: "Tất cả mọi người đều sinh ra có quyền bình đẳng. Tạo hóa cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được; trong những quyền  ấy, có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc". Người khẳng định đó là những lẽ phải không ai chối cãi được. Người tố cáo thực dân Pháp hơn 80 năm xâm lược nước ta đã làm trái với nhân đạo và chính nghĩa. Trên cơ sở chân lý ấy, Người trịnh trọng tuyên bố với thế giới rằng, nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập, và sự thật đã thành một nước tự do, độc lập. Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do, độc lập ấy. Sau này Người còn nói, nước độc lập rồi mà dân không hưởng hạnh phúc, tự do thì độc lập cũ chẳng có ý nghĩa gì. Trong lời kêu gọi đồng bào và chiến sỹ cả nước quyết tâm đánh thắng giặc Mỹ xâm lược, tại Hà Nội, ngày 17/7/1966. Người khẳng định: Không có gì quý hơn Độc lập Tự do!

Ngày nay chúng ta có thể gọi tư tưởng “Không có gì quý hơn Độc lập, Tự do" của Chủ tịch Hồ Chí Minh là  chân lý, một chân lý được hình thành và phát triển trong lịch sử đấu tranh cách mạng của dân tộc Việt Nam, được hun đúc từ chiêm nghiệm và trải nghiệm của cuộc đời đấu tranh cách mạng gian truân, phong phù và oanh liệt của Hồ Chí Minh, trong đó có những trải nghiệm của những ngày tháng trong nhà tù của Tưởng giới Thạch, mà Người đã xót xa viết trong tập thơ Nhậ ký trong tù.

Tư tưởng, khát vọng tự do đó có lúc được ngân lên mãnh liệt trong từng câu, từng chữ, lúc thì cay đắng nghẹn ngào vị tự do đang bị bóp nghẹt, bị tước đoạt, đòi giải phóng. Tiếng thơ đó, không chỉ là tiếng lòng của một cá nhân mà khát vọng của cả một dân tộc, một thời đại mà tự đo đang bị chiến tranh đế quốc, chiến tranh phát xít đe dọa tước đoạt. Khi“Con người coi rẻ hơn con lợn, Chỉ tại người không có chủ quyền!

Người viết:
Trên đời nghìn vạn điều cay đắng,
Cay đắng chi bằng mất tự do?
Mỗi việc mỗi lời không tự chủ,
Để cho người dắt tựa trâu bò!

(Cành binh khiêng lợn cùng đi)

Vì vậy, dù phải bị giải đi tận 13 huyện 30 nhà lao, thân thể bị gông cùm, nhưng tư tưởng tự do là cứu cánh, giải thoát cho người chiến sĩ cách mạng. Người ví Người là người Khách tiên tự do trong tù ngục. Không có tù ngục nào có thể giam hãm được tự do.

Dù trong hoàn cảnh vô cùng nghiệt ngã, Người không bao giờ từ bỏ mục đích của mình, không bao giờ tắt khát vọng tư do, khát vọng giải phóng mình, giải phóng dân tộc, giải phóng con người.  

Ngâm thơ ta vốn không ham,
Nhưng vì trong ngục biết làm chi đây;
Ngày dài ngâm ngợi cho khuây,
Vừa ngâm vừa đợi đến ngày tự do.

(Mở đầu tập nhật ký)

Tự do tiên khách trên trời,
Biết chăng trong ngục có người khách tiên?

(Quá trưa)

Năm canh thao thức không nằm,
Thơ tù ta viết hơn trăm bài rồi;
Xong bài, gác bút nghỉ ngơi,
Nhòm qua cửa ngục, ngóng trời tự do.

 (Đêm Không Ngủ)

Sự vui mừng khi được trả tự do, không chỉ nói lên sự tự do thoát cảnh lao tù mà sự trở về với cuộc đấu tranh, với đồng chí, đồng bào, với đất nước. “Hẹn bạn về khi lúa đỏ đồng”, nay đã lỡ hẹn, “gặt đã xong cày đã khắp”, mà quê người vẫn chốn lao lung, chưa biết ngày nào được ra tù.

Mặc dù bị trói chân tay,
Chim ca rộn núi, hương bay ngát rừng;
Vui say, ai cấm ta dừng,
Đường xa, âu cũng bớt chừng quạnh hiu.

(Giải đi sớm)

Là Thiên sứ của tự đo, chiến sĩ đấu tranh cho tự do, nhưng tự do trong tư tưởng Hồ Chí Minh là tự do chân chính, tự do của lòng dũng cảm, gan góc đứng về phía văn minh, tiến bộ, về phe dân chủ, chống áp bức, chống thực dân, phát xít. Sau này, trong Tuyên ngôn độc lập, đọc trước quảng trường Ba Đình, năm 1945 Người khẳng định “Một dân tộc đã gan góc chống ách nô lệ của Pháp hơn tám mươi năm nay, một dân tộc đã gan góc đứng về phe Đồng minh chống phát-xít mấy năm nay, dân tộc đó phải được tự do ! Dân tộc đó phải được độc lập ! Người kết tội chủ nghĩa phát xít, đối với nhân dân Trung Hoa. Người chỉ rõ tội ác của phát xít Nhật, nguyện kề vai sát cánh cùng nhân dân Trung Hoa, nhân dân Á châu chống sự xâm lược của phát xít Nhật. Người thấy rõ bộ mặt của chủ nghĩa phát xít mà ở châu Á là phát xít Nhật:

Năm châu nay lại đang tuôn máu,
Bọn quỷ Nadi tội đứng đầu.


Trung Hoa kháng chiến sáu năm chầy
Oanh liệt, vang lừng khắp đó đây;
Đến lúc phản công nên cố gắng,
Mặc dầu thắng lợi nắm trong tay.

Người khẳng định tư thế đại biểu dân Việt Nam, một dân tộc đang đứng về phe Đồng Minh, đấu tranh cùng nhân dân trung Hoa chống phát xít nói chung, phát xít Nhật nói riêng, hòa vào trào lưu “kháng Nhật cờ bay khắp Á châu”,  thế mà bị nghi là Hán gian!

Ta là đại biểu dân Việt Nam,
Tìm đến Trung Hoa để hội đàm;
Ai ngỡ đất bằng gây sóng gió,
Phải làm “khách quý” tại nhà giam!

Ta người ngay thẳng, lòng trong trắng,
Lại bị tình nghi là Hán gian;

(Đường đời hiểm trở)

Mỉa mai, chế độ Tưởng Giới Thạch, đối xử phân biệt với đại biểu của các lực lượng Đồng Minh, Người viết:

Cũng là đi Trùng Khánh,
Cũng là bạn Trung Hoa;
Anh, làm khách trên sảnh,
Tôi, thân tù dưới nhà;
Cùng là đại biểu cả,
Khinh trọng sao khác xa?

Trách cái chính quyền Quốc dân Đảng nhũng nhiễu, thối nát, cản trở “cánh chim bằng” Người đặt câu hỏi:

Quảng Tây giải khắp mười ba huyện,
Mười tám nhà lao đã ở qua;
Phạm tội gì đây? Ta thử hỏi,
Tội trung với nước, với dân à?

(Đến Cục Chính trị Chiến khu IV)

4. Nhật ký trong tù là khí phách, phẩm chất của người cách mạng, lạc quan, tin tưởng vào thắng lợi, nghạo nghễ, cười cợt trước khó khăn, thử thách, ung dung, tự tại, chấp nhận hi sinh.

Cho dù hiểm nguy, người chiến sĩ cách mạng trong Nhật ký trong tù vẫn lạc quan, yêu đời, cười cợt với hiểm nguy, chấp nhận rủi ro, sự trớ trêu của số phận, tin tưởng vào ngày mai tươi sáng.

Sự nghiệp cách mạng không bao giờ là một công việc dễ dàng. Thậm chí “Dấn thân vô là phải chịu tù đày, là gươm kề tận cổ súng kế tai, là thân sống chỉ coi còn một nửa” (Tố Hữu). Là một người cách mạng, Hồ Chí Minh luôn xác định: “Muốn nên sư nghiệp lớn”, thì “tinh thần càng phải cao”. Như quy luật của mọi sự thành công, mọi chiến thắng, sự nghiệp cách mạng cũng có quy luật hi sinh.

Ví không có cảnh đông tàn,
Thì đâu có cảnh huy hoàng ngày xuân;
Nghĩ mình trong bước gian truân,
Tai ương rèn luyện tinh thần thêm hăng.

(Tự Khuyên Mình)

Mặc dù phải chịu nhiều nghịch cảnh chốn lao lung, mặc dù “Trong ngục giờ đây còn tối mịt.” (Buổi Sớm) Người khẳng định một quy luật của cuộc đời, của mọi sự thành công, hay quy luật của đấu tranh cách mạng, cũng là để động viên mình, nhắc nhở sự kiên nhẫn của mình.

Tin vào “bĩ cực ắt thái lai”, tin vào quy luật “gian nan rèn luyện mới thành công”, tin vào “sự vật vần xoay đà định sẵn, hết mưa là nắng hững lên thôi”, tin vào “hết khổ là vui vốn lẽ đời”…nên Hồ Chí Minh luôn giữ vững tinh thần, lạc quan, yêu đời, tin tưởng vào ngày thắng lợi, thậm chí cười cợt, châm biếm những nghịch cảnh thử thách mình trong lao tù. Có thể nói, đây là liệu pháp đặc trưng của người cách mạng, lúc ở trong tù, hay trong những hoàn cảnh gian nan khác. Đây cũng là bài học cho cuộc sống bình thường của mỗi chúng ta, truyền cảm hứng cho chúng ta. Trong Nhật ký trong tù có nhiều bài như vậy:

Trong bài “Nghe Tiếng Giã Gạo”, người viết:

Gạo đem vào giã bao đau đớn,
Gạo giã xong rồi, trắng tựa bông;
Sống ở trên đời người cũng vậy,
Gian nan rèn luyện mới thành công

Hay trong bài Trên đường đi:

Mặc dù bị trói chân tay,
Chim ca rộn núi, hương bay ngát rừng;
Vui say, ai cấm ta đừng,
Đường xa, âu cũng bớt chừng quạnh hiu.

(Trên đường đi)

Trong tù không rượu cũng không hoa,
Cảnh đẹp đêm nay, khó hững hờ!
Người ngắm trăng soi ngoài cửa sổ
Trăng nhòm khe cửa ngắm nhà thơ.

(Ngắm Trăng)

Ăn cơm nhà nước ở nhà công,
Lính tráng thay phiên đến hộ tòng;
Non nước dạo chơi tùy sở thích,
Làm trai như thế cũng hào hùng!

(Pha Trò)

Trong tù khoan khoái giấc ban trưa,
Một giấc miên man suốt mấy giờ;
Mơ thấy cưỡi rồng lên thượng giới,
Tỉnh ra trong ngục vẫn nằm trơ.

(Giấc ban trưa)

Đi khắp đèo cao, khắp núi cao,
Ngờ đâu đường phẳng lại lao đao!
Núi cao gặp hổ mà vô sự,
Đường phẳng gặp người bị tống lao?!

(Đường Đời Hiểm Trở)

Hôm nay xiềng sắt thay dây trói,
Mỗi bước leng keng tiếng ngọc rung;
Tuy bị tình nghi là gián điệp,
Mà như khanh tướng vẻ ung dung.

(Đi Nam Ninh)

Đầy mình đỏ tím như hoa gấm,
Sột soạt luôn tay tựa gảy đàn;
Mặc gấm, bạn tù đều khách quý,
Gảy đàn, trong ngục thảy tri âm.

(Ghẻ lở)

“Ngoại cảm” trời Hoa cơn nóng lạnh,
“Nội thương” đất Việt cảnh lầm than;
Ở tù mắc bệnh càng cay đắng,
Đáng khóc mà ta cứ hát tràn!

(Ốm nặng)

Trước cửa lính canh bồng súng đứng,
Trên trời trăng lướt giữa làn mây;
Rệp bò ngang dọc như xe cóc,
Muỗi lượn hung hăng tựa máy bay;
Nghìn dặm bâng khuâng hồn nước cũ,
Muôn tơ vương vấn mộng sầu nay;
Ở tù năm trọn thân vô tội,
Hoà lệ thành thơ tả nỗi này.

(Đêm Thu)

Một canh... hai canh... lại ba canh,
Trằn trọc băn khoăn, giấc chẳng thành;
Canh bốn, canh năm vừa chợp mắt,
Sao vàng năm cánh mộng hồn quanh.

(Không ngủ được)

5. Nhật ký trong tù là một phác thảo bằng thơ về chiến lược, sách lược cách mạng, về phương pháp tuyên truyền, vận động quần chúng, về giáo dục con người và sứ mệnh của thơ ca cách mạng.

           Nổi bật nhất, có lẽ là bài “Học đánh cờ”:

Nhàn rỗi đem cờ học đánh chơi,
Thiên binh vạn mã đuổi nhau hoài;
Tấn công, thoái thủ nên thần tốc,
Chân lẹ, tài cao ắt thắng người.

Phải nhìn cho rộng suy cho kỹ,
Kiên quyết, không ngừng thế tấn công;
Lạc nước, hai xe đành bỏ phí,
Gặp thời, một tốt cũng thành công.

Vốn trước hai bên ngang thế lực,
Mà sau thắng lợi một bên giành;
Tấn công, phòng thủ không sơ hở,
Đại tướng anh hùng mới xứng danh.

Bài thơ nói về chuyện học đánh cờ là chủ đề nhiều người có thể hiểu được. Tuy vậy, bài thơ đã gói gọn nghệ thuật quân sự, thể hiện tư tưởng Hồ Chí Minh về phương pháp tiến hành chiến tranh cách mạng. Sau ngày thành lập Mặt trận Việt Minh cho đến trước ngày sang Trung Quốc và bị quân Tưởng bắt giam, Người viết nhiều bài báo về chiến tranh du kích, cách tổ chức Việt Minh, cách vận động quần chúng…Trong tập Nhật ký trong tù, tuy Người không viết nhiều về nghệ thuật quân sự nhưng những quan điểm về quân sự, phương thức đấu tranh cách mạng cũng được phác thảo.

Nói về tập hợp lực lượng quốc tế trong chiến tranh chống đề quốc thực dân nói chung, chống chủ nghĩa phát xít nói riêng, Người cho rằng:

Kháng Nhật, cờ bay khắp Á châu,
Cờ to, cờ nhỏ chẳng đều nhau;
Cờ to đã hẳn là nên có,
Cờ nhỏ dù sao, thiếu được đâu.

(Ngày 11 tháng 11)

Người chỉ rõ vai trò từng bộ phận trong lực lượng cách mạng, từ người lãnh tụ, người tuyên truyền, người vận động…tất cả được diễn đạt bàng những hình tượng thơ rất sinh động. Ví dụ đối với người lãnh đạo:

Người thoát khỏi tù ra dựng nước,
Qua cơn hoạn nạn, rõ lòng ngay;
Người biết lo âu, ưu điểm lớn,
Nhà lao mở cửa, ắt rồng bay!

(Chiết tự)

 Đối với người làm công tác tuyên truyền, giác ngộ cho quần chúng, thức tỉnh quần chúng. Vai trò của những người làm công tác tuyên truyền như vậy là rất quan trọng, như gà gáy sáng, báo hiệu bình minh:

Ngươi tuy chỉ một chú gà thường,
Báo sáng, ngày ngày tiếng gáy vang;
Một tiếng, toàn dân bừng tỉnh mộng,
Công ngươi đâu có phải là xoàng

(Nghe tiếng gà gáy)

Đối với người là công tác vận động quần chúng:

Chẳng cao cũng chẳng xa,
Không đế cũng không vương;
Một phiến đá nho nhỏ,
Đứng sừng sững bên đường;
Người nhờ anh chỉ lối,
Đi đúng hướng đúng phương;
Anh chỉ cho người biết,
Nào dặm ngắn, dặm trường;
Mọi người nhớ anh mãi,
Công anh chẳng phải thường.

(Cột cây số)

Đối với nhân dân:

Thà chết chẳng cam nô lệ mãi,
Tung bay cờ nghĩa khắp trăm miền;

Trong Nhật ký trong tù, Hồ Chí Minh cũng có dịp bàn về giáo dục, về văn học nghệ thuật. Quan điểm của Người rất khoa học, rất biện chứng và vẫn còn ý nghĩa thời sự cho đến hôm nay. Khi quan sát người đang ngủ, khác với các quan điểm “nhân chi sơ tính bản ác” hoặc “nhân chi sơ tính bản thiện”, Người viết:

Ngủ thì ai cũng như lương thiện,
Tỉnh dậy phân ra kẻ dữ, hiền;
Hiền, dữ phải đâu là tính sẵn,
Phần nhiều do giáo dục mà nên.

(Nửa đêm)

Đối văn học nghệ thuật cách mạng, người cho rằng, cần phải bổ sung tính chiến đấu vào trong thơ. Sứ mệnh của nhà thơ không chỉ là ca ngợi thiên nhiên, ca người cái đẹp, mà còn phải biết đánh giặc, phải biết chiến đấu chống kẻ thù của giai cấp, của dân tộc, kẻ thù của tiến bộ xã hội, là một chiến sĩ trên mặt trận văn hóa, văn nghệ. Người viết:

Thơ xưa thường chuộng thiên nhiên đẹp,
Mây, gió, trăng, hoa, tuyết, núi, sông;
Nay ở trong thơ nên có thép,
Nhà thơ cũng phải biết xung phong.

(Cảm tưởng đọc Thiên Gia Thi)

6. Nhật ký trong tù là một tập thơ thấm đẫm tình người, con người với nghĩa chân chính nhất, bình dị nhất

Đó là những bài thơ, những câu thơ, nói về sự rung động của tâm hồn con người trước vẻ đẹp của thiên nhiên, của cuộc sống. Mặc dù trong cảnh bị trói chân  tay, bị áp giải đi, nhưng sự đau khổ không dập tắt được xúc cảm rất con người trược thiên nhiên tươi đẹp:

Đi đường mới biết gian lao,
Núi cao rồi lại núi cao trập trùng;
Núi cao lên đến tận cùng,
Thu vào tầm mắt muôn trùng nước non.

(Đi Đường)

Thật đáng trân trọng cái cảm xúc của con người sau một đêm trằn trọc, đón ánh sáng bình minh của trời hửng sáng, đón một ngày mới. Tuy vẫn là người tù, nhưng hi vọng tràn trề về những điều tốt đẹp:

Sự vật vần xoay đã định sẵn

Hết mưa là nắng hửng lên thôi.

Đất trời một thoáng thu màn ướt,
Sông núi muôn trùng trải gấm phơi;
Trời ấm, hoa cười chào gió nhẹ,
Cây cao, chim hót rộn cành tươi;
Người cùng vạn vật đều phơi phới,
Hết khổ là vui vốn lẽ đời.

(Trời hửng)

Có những bài thơ về nỗi nhớ da diết của người xa quê, xa bạn bè, đồng chí, xa người thân, xa nước, khi mà "Năm tròn cố quốc tăm hơi vắng, Tin tức bên nhà bữa bữa trông”. Những câu thơ Hồ Chí Minh viết về cảnh sinh hoạt ở những vùng quê Người đi qua, cho chúng ta thấy tác giả là một người yêu cuộc sống, yêu thiên nhiên, yêu con người lao động biết nhường nào!

Chùa xa chuông giục người nhanh bước,
Trẻ dẫn trâu về, tiếng sáo bay.

(Hoàng Hôn)

Cảnh hoàng hôn và chiều tối thật thanh bình, như không có bắt bớ, tù đầy, như không có chiến tranh, chết chóc, đau thương.

Chim mỏi về rừng tìm chốn ngủ,
Chòm mây trôi nhẹ giữa từng không;
Cô em xóm núi xay ngô tối,
Xay hết, lò than đã rực hồng.

(Chiều Tối)

Đã đến hẹn rồi mà tin tức bên nhà không có, tình hình thế giới và trong nước đang chuyển biến mau lẹ, tâm trạng thật rối bời…

Ngày đi bạn tiễn đến bên sông,
Hẹn bạn về khi lúa đỏ đồng;
Nay gặt đã xong, cày đã khắp,
Quê người, tôi vẫn chốn lao lung.

(Nhớ Bạn)

Trong hoàn cảnh đó, trong tù cất lên tiếng sáo, làm cho lòng người tù xao xuyến chạnh nhớ quê hương bạn bè. Đó là nỗi nhớ rất người. Ai đã từng xa quê, chăc đều có trải nghiệm.

Bỗng nghe trong ngục sáo vi vu,
Khúc nhạc tình quê chuyển điệu sầu;
Muôn dặm quan hà, khôn xiết nỗi,
Lên lầu ai đó ngóng trông nhau.

(Bạn Tù Thổi Sáo)

Đó là những cảm xúc, buốn thương trước sự ra đi của bạn tù (cùng cảnh ngộ) của đồng loại. Có thể ngoài xã hội, địa vị, công việc, lý tưởng sống, đam mê của mỗi người là rất khác nhau. Nhưng trong tù họ là “bạn”- bạn tù. Dù là thân phận của một người tù cờ bạc, nhưng khi ốm đau, bệnh tật, đói rét bị chết cứng, Đối với Hồ Chí Minh đó vẫn là con người, đáng được thương xót, Sự đau xót, thương cảm trước cái chết của đồng loại là một cảm xúc rất người, rất nhân văn.

Thân anh da bọc lấy xương                                        Ốm đau bệnh tất hết phương cứu rồi!                        Hôm qua còn ở bên tôi.                                            Hôm nay anh đã về nơi suối vàng.

Một người tù cờ bạc chết cứng

Tình cảnh đáng thương của người vợ đến thăm chồng, nhưng vẫn bị chia cắt bởi song sắt nhà tù. Nỗi đau của tác giá đối với một đứa trẻ 6 tháng tuổi phải vào tù chỉ vì cha trôn lính…

Anh ở trong song sắt,
Em ở ngoài song sắt;
Gần nhau chỉ tấc gang,
Mà cách nhau trời vực;
Miệng nói chẳng nên lời,
Chỉ còn nhờ khoé mắt;
Chưa nói, lệ tuôn tràn,
Cảnh tình đáng thương thật!

Trong Nhật ký trong tù, có nhiều bài thơ nhân hóa các hiện tượng thiên nhiên, đồ vật, từ mây trời, con gà, cột cây số, cây gậy chiếc răng…Trong đó, tác giải gửi vào đó tình người, yêu thương đằm thắm, sự chia sẻ cảnh ngộ, bao dung, mà như sau này Tố Hữu đã từng viết “nâng niu tất cả chỉ quên mình”.

Khi mất chiếc gậy:

Suốt đời ngay thẳng lại kiên cường,
Dìu dắt nhau đi mấy tuyết sương;
Giận kẻ gian kia gây cách biệt,
Hai ta dằng dặc nỗi buồn thương.

(Lính ngục đánh cắp mất chiếc gậy của ta)

Khi rụng mọt chiếc răng:

Ngọt bùi cay đắng từng chia sẻ,
Nay kẻ chân mây, kẻ cuối trời.

(Rụng Mất Một Chiếc Răng)

Một tình cảm rất người đó là sự biết ơn. Nhiều nhà luân lý cho răng, lòng biết ơn phải là đức tính cao quý, tốt đẹp đầu tiên cần có của con người. Biết ơn đấng sinh thành, biết ơn tổ tiên, biết ơn quê hương, xử sở, biết ơn thế hệ đi trước, biết ơn người dạy dỗ, biết ơn người giúp đỡ mình…Dù trong hoàn cảnh nghiệt ngã, trớ trêu của lao tù Tưởng Giới Thạch, nhiều lúc làm người tù Hồ Chí Minh bực mình, không hiểu, nhất là những lúc giải đi vòng quanh mà không biêt vì sao, đi về đâu. Nhưng với những sự quan tâm, đối xử tử tế, nhân văn, luôn được Hồ Chí Minh ghi nhận, cám ơn. Người rất xúc động trước những cử chỉ có tình người ấy. Khi được ông Lương chủ nhiệm đãi ‘hậu”, mà “hậu” là “có cơm rau, ngủ có mền” người viết:

Ăn có cơm rau, ngủ có mền,
Báo xem, thuốc hút: cấp cho tiền;
Ông Lương chủ nhiệm đãi ta hậu,
Cảm kích lòng ta, nói chẳng nên.

(Được ưu đãi)

Người cảm kích trước sự thăm hỏi và giúp đỡ của Trưởng khoa họ Ngũ với họ Hoàng:

Họ Ngũ trưởng khoa với họ Hoàng,
Thấy ta cùng cực động lòng thương;
Ân cần thăm hỏi và cưu giúp,
Như nắng bừng lên giữa giá sương.

(Khoa trưởng họ Ngũ, khoa viên họ Hoàng)

Người tù Hồ Chí Minh cũng rất trân trọng, ghi nhận Tiên sinh họ Quách, đã đối đãi ân cần, tử tế “Rét đến cho than”, không mấy kẻ/ Đời nay người thế vẫn còn mà. Người khen và cám ơn Trường Ban họ Mạc đã “dùng ân” đối xử với tù nhân.

Trưởng ban họ Mạc người hào hiệp,
Dốc túi mua cơm giúp phạm nhân;
Đêm đến cởi thừng cho họ ngủ,
Chẳng dùng quyền thế, chỉ dùng ân.

(Trường Ban họ Mạc)

Trong tù, Hồ Chí Minh đặc biệt ghi nhớ 2 người, người thứ nhất là anh Dương Đào, người thứ hai là Chủ nhiệm Cục Chính trị Đệ tứ chiến khu Hầu Chí Minh.

 Dương Đào: một nông dân người Quảng Tây, tình nguyện đi theo và  dẫn đường cho Hồ Chí Minh. Hệ lụy, là khi Hồ Chí Minh bị bắt, anh cũng bị bắt và bị giam cầm cùng với Người. Sau khi Hồ Chí Minh ra tù được ít lâu, anh Dương Đào cũng được ra tù và mất tại Liễu Châu vì bệnh lao (mắc từ trong tù). Hồ Chí Minh rất thương tiếc, coi Dương Đào như anh em.[6]

Sóng dậy đất bằng hỏi cớ sao,
Đẩy anh vào ngục, anh Dương Đào;
Cháy thành lây vạ, buồn khôn xiết,
Nay lại thương anh mắc chứng lao.

(Dương Đào ốm nặng)

Nói về Hầu chủ nhiệm (Hầu Chí Minh) Chủ nhiệm Cục Chính trị Đệ tứ chiến khu, người chắc đã có vai trò nào đó trong việc trả tự do cho Hồ Chí Minh. Trong bài thơ cuối cùng viết về Hầu Chí Minh, Người đã không tiếc lời ca người Hầu Chủ nhiệm, như “ nhờ ơn”, “tái tạo ơn sâu”, “cảm tạ người”.

Sáng suốt, nhờ ơn Hầu chủ nhiệm,
Tự do trở lại với mình rồi;
Ngục trung nhật ký từ đây dứt,
Tái tạo ơn sâu, cảm tạ người.

(Kết luận)

Ngày 10-9-1943 là ngày Hồ Chí Minh được trả tự do, năm nay cũng là 80 năm ngày ra đời tập thơ Nhật ký trong tù. Một tập thơ được Hồ Chí Minh sáng tác trong một hoàn cảnh đặc biệt, chốn lao tù, bằng một ngôn ngữ không phải tiếng mẹ đẻ (chữ Hán)…Nhưng tập thơ đã thể hiện rõ ràng, nhất quán tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh, một nhà yêu nước vĩ đại, một nhà cách mạng kiên cường, một con người bao dung, ấm áp, bình dị…Dù năm tháng có trôi qua, tập Nhật ký trong tù của Hồ Chí Minh  với những câu thơ chứa chan khát vọng sống, khát vọng tự do, y chí bất khuất trước mọi nghịch cảnh, những câu thơ ấm áp tình yêu thiên nhiên, con người…vẫn sẽ sống mãi với thời gian, góp phần hun đúc nên những giá trị cao quý của tâm hồn dân tộc Việt Nam, con người Việt Nam./.

Chú thích:

[1] Hồ Chí Minh - Biên niên tiểu sử, tập 2, (1930-1945)

[2] Trần Dân Tiên: Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ tịch, Nxb. Sự thật, Hà Nội, 1994, tr. 85-86.

[3] Trần Dân Tiên: Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ tịch, Nxb. Chính trị quốc gia - Nxb. Thanh niên, Hà Nội, 1994, tr. 86.

[4] https://sachhay24h.com/hoan-canh-ra-doi-cua-tap-tho-nhat-ky-trong-tu-ho-chi-minh-a1097.html (Truy cập ngày 01-9-2023)

[5] Trong các câu: 1) Vừa ngâm vừa đợi đến ngày tự do. 2) Còn lại trong tù khách tự do. 3) Tù nhân ngẩng mặt ngắm trời tự do; 4) Tự do tiên khách trên trời; 5) Chẳng được tự do mà thưởng nguyệt; 6) Cay đắng chi bằng mất tự do? 7) Tự do anh ấy hằng mong mỏi, 8) Tự do, thử hỏi đâu là? 9) Đau khổ chi bằng mất tự do; 10) Nhòm qua cửa ngục, ngóng trời tự do; 11) Năm ngoái đầu thu ta tự do; 12) Tự do trở lại với mình rồi;

[6] Tháng 8-1963, Hồ Chủ tịch đã mời bảy vị có công giúp đỡ cách mạng Việt Nam ở hai huyện Tĩnh Tây và Na Pha (Quảng Tây) sang thăm nước ta, trong đó có Dương Thắng Cường, em ruột Dương Đào.

Phản hồi

Người gửi / điện thoại

Nội dung

 
09-09-2023

Đánh giá

images5342607_my_video_moi3
ba_sche57b288a-ab22-4b92-a4a5-0f3b2fd4cdeb85e2ebd4-b773-4e04-8350-ade5b8771f57
image001
Lượt truy cập
Đang truy cập: 5
Trong ngày: 46
Trong tuần: 699
Lượt truy cập: 368462
Lên đầu trang