Đăng ký | Đăng nhập

Email / Điện thoại

Mật khẩu

Nhớ mật khẩu | Quên mật khẩu

http://Taochu.Uhm.vNhttp://Taochu.Uhm.vNhttp://Taochu.Uhm.vNhttp://Taochu.Uhm.vNhttp://Taochu.Uhm.vNhttp://Taochu.Uhm.vNhttp://Taochu.Uhm.vNhttp://Taochu.Uhm.vNhttp://Taochu.Uhm.vNhttp://Taochu.Uhm.vN
Chinhtrihoc.vn là website cá nhân của GS.TSKH Phan Xuân Sơn. Trang chinhtrihoc.vn là một trang web khoa học, nơi kết nối các nhà khoa học, những ai yêu thích, tâm huyết với việc nghiên cứu khoa học chính trị. Trang web ra đời nhằm góp phần vào sự phát triển khoa học chính trị nước nhà nói riêng, sự phát triển đất nước nói chung. Trang web được đăng ký và hoạt động theo pháp luật nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Chỉ các thành viên mới được đăng bài. Chịu trách nhiệm nội dung: GS.TSKH Phan Xuân Sơn. Hỗ trợ web: KS.CNTT Phạm Thị Ngọc Thanh ☏ 0866772894

MỐI QUAN HỆ GIỮA NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VÀ NỀN DÂN CHỦ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở VIỆT NAM

MỐI QUAN HỆ GIỮA NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VÀ NỀN DÂN CHỦ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở VIỆT NAM

Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và các khái niệm dân chủ, nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, có liên quan chặt chẽ, đan cài, lồng ghép vào trong từng nội dung của mỗi khái niệm. Chúng có mối quan hệ biện chứng với nhau, làm tiền đề và điều kiện cho nhau.

Mục lục bài viết

1249

MỐI QUAN HỆ

GIỮA NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN XÃ HỘI CHỦ NGHĨA

VÀ NỀN DÂN CHỦ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở VIỆT NAM

 

GS.TSKH Phan Xuân Sơn

1. Những vấn đề lý luận về mối quan hệ giữa Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam và nền dân chủ xã hội chủ nghĩa

1.1. Nhà nước pháp quyền

Trên thế giới hiện nay có bốn thuật ngữ liên quan đến nội dung của khái niệm nhà nước pháp quyền, đó là: 1) Rechtsstaat (Đức); 2) Des L’Etat de Droit (Pháp); 3) Rule of Law (Anh); 4) Pravavoe gosudarstvo (Nga). Ngày nay, nhà nước pháp quyền là một phương thức thực thi quyền lực nhà nước mang tính phổ biến vì nó phản ảnh được những thành tựu văn minh chính trị mà nhân loại đã đấu tranh, theo đuổi hàng ngàn năm qua. Trong đó nổi bật là sự đảm bảo cho quyền dân chủ của nhân dân.

Chúng ta có thể nêu lên định nghĩa:

Nhà nước pháp quyền là nhà nước mà chủ quyền của nó thuộc về nhân dân; các thể chế quyền lực của nó phải được tổ chức và hoạt động một cách công cộng và công khai; luật pháp của nhà nước đó phản ánh các quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của nhân dân và bảo vệ các quyền, lợi ích ấy (quyền con người, quyền công dân, quyền cộng đồng, quyền dân tộc…), đồng thời pháp luật phản ánh những khuynh hướng tiến bộ chung của nhân loại và trở thành ngự trị tối cao trong đời sống xã hội; các cơ quan quyền lực nhà nước được tổ chức sao cho vừa  phân định rõ chức năng, nhiệm vụ, đảm bảo thống nhất phối hợp hành động thực thi quyền lực của nhân dân, đồng thời thực thiện kiểm soát quyền lực nhà nước, tránh tuyệt đối hóa quyền lực, tránh chuyên quyền, lạm quyền hoặc nhược quyền.

Dựa trên các nguyên lý về nhà nước pháp quyền, mỗi quốc gia do đặc điểm kinh tế - xã hội và lịch sử, có thể có mô hình nhà nước pháp quyền khác nhau. Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, ngoài những tính chất đã nêu, còn thêm một tính chất mang tính đặc trưng là Nhà nước do Đảng cộng sản Việt Nam lãnh đạo.

1.2. Nền dân chủ và nền dân chủ xã hội chủ nghĩa.

- Dân chủ:

Ngày nay, khái niệm “dân chủ” (demokratia - tiếng Hi lạp, nghĩa là quyền lực nhân dân)  được tiếp cận và hiểu rộng hơn nguyên nghĩa ban đầu của nó, gồm có thứ nhất dân chủ là một giá trị xã hội trong đó con người được giải phóng khỏi áp bức, bất công, tự do quyết định vận mệnh của mình; thứ hai, dân chủ được hiều như một quyền, trong đó con người được làm tất cả những gì mà pháp luật của nhà nước không cấm; thứ ba dân chủ được hiểu như là một chế độ nhà nước, trong đó mọi quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân, nhân dân là chủ thể gốc của quyền lực nhà nước, quyết định hinh thức tổ chức, phương thức hoạt động và mục tiêu hoạt động của nhà nước; thứ tư dân chủ được hiểu như những nguyên tắc sinh hoạt của các tổ chức, nhất là các đảng chính trị, trong đó đảm bảo mọi thành viên đều bình đẳng, tôn trọng nhau và quyết định theo đa số hoặc đồng thuận; thứ năm, dân chủ được coi là mối quan hệ xã hội, trong đó có sự tôn trọng lẫn nhau, được tự do bày tỏ ý kiến, chính kiến về mọi vấn đề.

- Nền dân chủ:

Từ khái niệm dân chủ, chúng ta có thể định nghĩa về nền dân chủ: 

Nền dân chủ là tổng hợp các chủ thể, mục tiêu, quan hệ, cơ chế, nguyên tắc và phương thức, mà quan trọng nhất là thông qua chế độ nhà nước, để nhân dân tổ chức và thực hiện quyền làm chủ của mình, bằng nhiều hình thức (dân chủ đại diện, dân chủ trực tiếp, dân chủ tham dự...) và toàn diện trên các lĩnh vực của đời sống xã hội.

Có nhiều chế độ dân chủ và nền dân chủ khác nhau. Bản chất và tính chất của các nền dân chủ được phân biệt bởi các kiểu nhà nước và các chế độ nhà nước.

Đặc trưng của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa Việt Nam là chế độ nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, do Đảng cộng sản Việt Nam lãnh đạo. Trong đó cần lưu ý những nội dung cơ bản sau:

- Dân chủ vừa là mục tiêu vừa là động lực của sự phát triển đất nước.

- Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước nước pháp quyền của dân, do dân và vì dân; mọi quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân; tổ chức và hoạt động theo các nguyên tắc pháp quyền.

- Mọi cơ quan quyền lực nhà nước từ trung ương đến cơ sở do nhân dân bầu ra bằng các cuộc bầu cử dân chủ.

- Pháp lệnh thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn (sẽ là Luật) thể chế hóa quyền làm chủ của nhân dân ở cơ sở, nơi dưới chính quyền cấp cơ sở là các cộng đồng dân cư tự quản.

- Mọi tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội do nhân dân tự nguyện lập nên.

- Đảng Cộng sản Việt Nam - Đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên phong của Nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam, đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, Nhân dân lao động và của cả dân tộc, lấy chủ nghĩa Mác – Lê nin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội.

- Cơ chế vận hành của hệ thống chính trị (thành tố căn bản của nền dân chủ) là Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ.

- Các phương thức thực thi dân chủ cơ bản gồm: Thông qua nhà nước pháp quyền, thông qua Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội và các tổ chức xã hội khác (“tổ chức xã hội” ở đây được gọi chung cho các tổ chức xã hội-nghề nghiệp, chính trị-xã hội-nghề nghiệp…), trong đó Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị-xã hội đòng vai trò nòng cốt chính trị để nhân dân làm chủ.

- Nguyên tắc tập trung dân chủ là nguyên tắc cơ bản của hệ thống chính trị.

- Nguyên tắc hiệp thương dân chủ, thống nhất và phối hợp hành động (dân chủ đồng thuận) là nguyên tắc hoạt động của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam.

- Nhân dân Việt Nam thực hiện quyền dân chủ của mình trên tất cả mọi lĩnh vực của đời sống xã hội: chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội…

1.3. Mối quan hệ giữa nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam

Qua nghiên cứu nội dung của các khái niệm nhà nước pháp quyền, nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và các khái niệm dân chủ, nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, chúng ta thấy hai cặp khái niệm này có liên quan chặt chẽ, đan cài, lồng ghép vào trong từng nội dung của mỗi khái niệm. Chúng có mối quan hệ biện chứng với nhau, làm tiền đề và điều kiện cho nhau. Nền dân chủ là mục tiêu, nhà nước pháp quyền là phương tiện hữu hiệu nhất đề đạt mục tiêu đó. Không xây dựng được nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa thì không thực hiện được nền dân chủ xã hội chủ nghĩa. Mối quan hệ đó biểu hiện rõ trong từng nội dung cụ thể của nhà nước pháp quyền nói chung, nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam nói riêng. Chúng ta lần theo từng nội dung để làm rõ các mối quan hệ ấy.

1) Nhà nước pháp quyền là nhà nước mà chủ quyền của nó thuộc về nhân dân.

Cương lĩnh, đường lối của Đảng, Hiến pháp, pháp luật của Nhà nước Việt Nam đã xác định NNPQ XHCN Việt Nam là của dân, do dân, vì dân. Ta có thể thấy rõ các yêu tố “của dân”, “do dân” có nghĩa rằng, NNPQ VN là phương tiện, là công cụ làm chủ của nhân dân; “vì dân” là mục đích của Nhà nước. Phương tiện, công cụ ấy cũng không thế phát huy hiệu lực, hiệu quả, nếu nhân dân không có tinh thần làm chủ, không biết làm chủ, không biết thực hành dân chủ. Vì vậy muốn có NNPQ XHCN ngày càng hoàn thiện phát huyđược các giá trị phổ biến của NNPQ cần phải xác định cho đúng những nội dung cơ bản trong xây dựng NNPQ XHCN ở Việt Nam hiện nay.

            Một là, phát huy dân chủ, bảo đảm quyền làm chủ của Nhân dân trong tổ chức vận hành bộ máy nhà nước và quản lý xã hội.

            Thông qua phương thức dân chủ đại diện, dân chủ trực tiếp và dân chủ tham gia, quyền làm chủ của Nhân dân được thực hiện. Trong xây dựng nhà nước, Nhân dân tham gia vào bầu cử các đại biểu đại diện cho Nhân dân vào Quốc hội, Hội đồng nhân dân các cấp. Nhân dân tham gia xây dựng, đánh giá, góp ý kiến cho những chủ trương, chính sách của Nhà nước và của chính quyền ở địa phương. Nhân dân có quyền khiếu nại, tố cáo, phát hiện và đề nghị thanh tra, xử lý các biểu hiện quan liêu, tham nhũng, các hành vi, biểu hiện tiêu cực của cán bộ, công chức. Đồng thời, các cơ quan, tổ chức nhà nước và cán bộ, công chức phải công khai mọi hoạt động, cung cấp thông tin kịp thời để dân biết, dân bàn, dân làm và dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng.

            Quốc hội là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất, do Nhân dân bầu ra theo nguyên tắc phổ thông, bình đẳng, trực tiếp và bỏ phiếu kín. Chỉ Quốc hội mới có quyền thể chế ý chí, nguyện vọng của Nhân dân thành luật, mang tính chất bắt buộc, phải tuân thủ đối với mọi tầng lớp dân cư trong xã hội. Do vậy, để xây dựng thành công NNPQ XHCN Việt Nam, nội dung quan trọng cần hướng tới chính là xây dựng Quốc hội thực sự đủ năng lực để có thể đảm nhận vai trò là cơ quan đại biểu của toàn dân, đại diện cho ý chí chung, nguyện vọng chung, trí tuệ của người dân Việt Nam.

Hai là, xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật theo chuẩn mực pháp quyền. Đảm bảo sự ngự trị tối cao của pháp luật của Nhà nước không chỉ là ý chí của nhân dân Việt Nam mà còn là thành tựu văn minh nhân loại.

Bảo đảm cho luật pháp thể hiện đúng quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng thể hiện ý chí, nguyện vọng của Nhân dân, thực sự bảo vệ được các quyền con người, quyền công dân, quyền cộng đồng và quyền dân tộc, phù hợp với xu thế tiến bộ văn minh của nhân loại. Luật pháp chiếm vị trí tối thượng trong hoạt động của Nhà nước và trong đời sống xã hội. Chỉ khi đó pháp luật mới có tính khả thi, có hiệu lực pháp lý và được nhân dân tự nguyện chấp hành. Với hệ thống pháp luật như vậy, pháp luật không chỉ mang tính chất pháp lý, mà còn mang tính dân chủ. Luật pháp không chỉ là ý chí của cá nhân, nhóm thống trị mà là ý chí chung, làm cơ sở và công cụ cho thực thi quyền lực nhà nước. Pháp luật chính là cơ sở đảm bảo cho việc tổ chức và thực thi quyền lực nhà nước được công cộng, công khai, dân chủ, minh bạch. Pháp luật và chất lượng của pháp luật trong NNPQ cũng có nghĩa là chất lượng của nền dân chủ, có ý nghĩa quyết định cho thành công của quá trình hoạt động NNPQ và thực thi dân chủ. Không thể có NNPQ khi không có luật tốt, đủ luật và hiệu quả pháp luật không cao. Điều đó lại phụ thuộc vào tính dân chủ của quá trình làm luật và phụ thuộc vào nền dân chủ. Diều quan trọng trong nhà nước pháp quyền nói chung, nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa nói riêng là có hệ thống luất pháp tốt và đầy đủ. Nhưng quan trọng hơn là từ hệ thống luật pháp đó, phải tạo ra được một trạng thái xã hội, trong đó người chấp hành pháp luật phải được lợi hơn người vi phạm pháp luật. Điều này phụ thuộc vào nhiều yếu tố, nhưng quan trọng nhất là bộ máy nhà nước trong thực thi pháp luật và bảo vệ pháp luật.

Ngày nay, trong bối cảnh toàn cầu hóa và hôi nhập quốc tế sâu rộng, toàn diện, Việt Nam đã chủ động, tích cực tham gia vào đời sống kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội thế giới. Nhà nước Việt Nam đã tham gia hầu hết các công ước của Liên hợp quốc, nhiều công ước khu vực, là nước tham gia nhiều nhất các hiệp định thương mại tự do. Hệ thống pháp luật Việt Nam đã nội luật hóa những cam kết quốc tế, điều đó thể hiện luật pháp của Nhà nước pháp quyền Việt Nam đã hòa vào xu thế tiến bộ của nhân loại. Điều đó không chỉ đáp ứng nguyện vọng của các tầng lớp nhân dân, mà còn thể hiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa Việt Nam ngày càng đáp ứng tốt hơn các chuẩn mực văn minh, dân chủ - pháp quyền của thế giới.

            Ba là, hoàn thiện tổ chức và nâng cao chất lượng, năng lực hoạt động, trách nhiệm giải trình của bộ máy nhà nước, đảm bảo quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp và kiểm soát quyền lực giữa các cơ quan trong việc thực hiện các quyền: lập pháp, hành pháp và tư pháp.

            Đây là những nội dung quan trọng có tính nguyên tắc trong đường lối xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của Đảng, đã được chế định trong Hiến pháp 2013.

            Thứ nhất, tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật.

Thứ hai, đảm bảo nguyên tắc: Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công phối hợp và kiểm soát lẫn nhau giữa các cơ quan trong việc thực hiện quyền lập pháp, quyền hành pháp và quyền tư pháp. Đây chính là nguyên tắc, là đặc trưng đồng thời cũng là nội dung cơ bản trong tổ chức và vận hành bộ máy nhà nước trong NNPQ XHCN Việt Nam. Nếu nguyên tắc này không thực hiện tốt, tất yếu sẽ dẫn đến tình trạng lạm quyền, chuyên quyền hoặc nhược quyền. Hệ quả là quyền lực nhà nước không những không được thực hiện hiệu quả, quyền, ý chí của nhân dân không được hiện thực hóa, mà còn dẫn đến nguy cơ tùy tiện, chuyên quyền, lạm quyền hoặc nhược quyền trong sử dụng quyền lực nhà nước.

Để thực hiện điều này, cần khắc phục về nhận thức và hành động trong việc tổ chức và vận hành bộ máy nhà nước theo kiểu tập trung quan liêu. Mỗi cơ quan nhà nước cần được chế định rõ vai trò, chức năng, nhiệm vụ, tránh việc một cơ quan nào đó ôm đồm, lấn sân, bao biện, làm thay chức năng nhiệm vụ của các cơ quan khác. Cần xây dựng cơ chế kiểm soát quyền lực rõ ràng, đủ mạnh để hạn chế tối đa sự lạm quyền. Hạn chế tối đa cơ quan thực hiện quyền lập pháp (Quốc hội) tham gia việc thực thi pháp luật, hoặc cơ quan thực hiện quyền hành pháp (Chính phủ) tham gia quá sâu vào nhiệm vụ lập pháp hoặc xét xử.

Thứ ba, mục đích tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước là đảm bảo cho người dân được thực hiện đầy đủ và đúng đắn các quyền của mình.

Quyền lực của bộ máy nhà nước chính là quyền lực do Nhân dân uỷ quyền, nhằm giúp Nhân dân thực hiện tốt quyền của mình, bảo vệ tốt lợi ích của mình ở những quan hệ mà tự người dân không thể trực tiếp thực hiện. Do vậy, trong NNPQ XHCN, công việc của các cơ quan nhà nước, lợi ích của các cơ quan nhà nước chỉ có thể là đại diện lợi ích của Nhân dân, công việc của Nhân dân, phục vụ Nhân dân. Sự xuất hiện, hình thành bất kỳ một cơ quan công quyền nào trong bộ máy nhà nước đều phải xuất phát từ nhu cầu của người dân, nhằm đáp ứng các đòi hỏi đảm bảo quyền và tự do của người dân. Vì vậy, bộ máy nhà nước phải được tổ chức như một nhân tố bảo đảm quyền con người, quyền công dân, vì quyền con người, quyền công dân theo ý chí và nguyện vọng của người dân, đáp ứng yêu cầu hợp pháp, chính đáng của người dân.

Để thật sự tìm được “người đày tớ trung thành”, người đại diện thực sự cho Nhân dân, các cơ quan quyền lực nhà nước, các chức danh thực thi quyền lực nhà nước trong bộ máy nhà nước, phải được hình thành trên cơ sở chế độ bầu cử thật sự dân chủ.  Đổi mới, hoàn thiện chế độ bầu cử phổ thông đầu phiếu đối với các cuộc bầu cử vào Quốc hội, Hội đồng nhân dân các cấp, đổi mới cách bầu cử các chức danh lãnh đạo trong bộ máy nhà nước cần cố gắng cao nhất theo chuẩn mực pháp quyền. Thực hiện quyền bãi miễn các đại biểu, hay quan chức, công chức một cách tiện lợi, khi nhân dân không tín nhiệm.

Thứ tư, tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước chỉ có thể bền vững và hiệu quả trên cơ sở xã hội công dân, xác định rõ mối quan hệ phối hợp, chia sẻ, hỗ trợ nhau giữa NNPQ XHCN và xã hội công dân Việt Nam[1], mà nòng cốt là Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội.

Đảng ta xác định, Mặt trận Tổ quốc là cơ sở chính trị của chính quyền nhân dân. Vai trò cơ sở của chính quyền nhân dân thể hiện ở hiệp thương dân chủ trong bầu cử hình thành các cơ quan quyền lực nhà nước (Quốc hội, Hội đồng nhân dân các cấp), trong phối hợp hành động với chính quyền nhà nước, trong giám sát, phản biệt xã hội đổi với các chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước…Tại Đại hội đại biểu đảng toàn quốc lần thứ XIII, đã ta chủ trương giải quyết tốt mối quan hệ giữa Nhà nước, thị trường và xã hội  và vai trò đó được khẳng định trong Nghị quyết là “nòng cốt chính trị” cho việc thực hiện quyền dân chủ của các tầng lớp nhân dân.

Mặc dù NNPQ có toàn năng đến đâu cũng không thể trực tiếp giải quyết được mọi vấn đề đa dạng đang diễn ra trong các lĩnh vực của đời sống xã hội, không thể đáp ứng mọi nhu cầu phong phú, luôn biến đổi của xã hội. Nhà nước càng ôm đồm những công việc ngoài chức năng công quyền, thì bộ máy càng nặng nề, kém hiệu lực, hiệu quả.  Xã hội vẫn cần có những hình thức tổ chức khác, cách thức khác không giống như nhà nước để liên kết người dân, thể hiện được ý chí, nguyện vọng của người dân, để tự tổ chức các quá trình xã hội, nuôi dưỡng và phát triển các nguồn vốn xã hội của dân cư và cộng đồng; từ đó, tự khẳng định vai trò của mình trong sự phát triển xã hội. Vì vậy, đối với NNPQ, bộ máy nhà nước cần được tổ chức phù hợp với vị trí, vai trò và trách nhiệm cần có của mình để giải quyết các công việc, các yêu cầu, đòi hỏi của xã hội. Đồng thời cũng cần tạo cơ chế để thông qua hoạt động của các tổ chức xã hội, cộng đồng giải quyết kịp thời và hiệu quả nhiều nhu cầu xã hội mà không cần thiết có sự can thiệp, hay sử dụng nguồn lực của các cơ quan nhà nước.

Có thể thấy rằng, sự xuất hiện của các tổ chức xã hội tự nguyện, tự chủ, tự quản khác nhau, hoạt động trong khuôn khổ pháp luật quốc gia, đã góp phần nâng cao năng lực thực hành dân chủ, giảm tải không ít công việc “vụn vặt” của nhà nước, giúp tinh gọn bộ máy nhà, tăng tính hiệu lực, hiệu quả, rảnh tay để giải quyết sắc bén những vấn đề quan trọng, cấp thiết, có tính chiến lược của quốc gia. Như vậy, mối quan hệ giữa bộ máy nhà nước với các tổ chức xã hội công dân trong quá trình xây dựng NNPQ XHCN đặt ra yêu cầu phải xác định rõ chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền của nhà nước, xác định rõ mô hình, cơ cấu tổ chức bộ máy và phương thức hoạt động của chúng. Bộ máy nhà nước phải được tổ chức sao cho vừa phát huy có hiệu quả vai trò đặc biệt quan trọng của NNPQ vừa đảm bảo tôn trọng và phát huy vai trò và sức mạnh, những đóng góp tích cực của các tổ chức xã hội nhằm hướng tới mục tiêu chung, mà ở nước ta là dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.

            Bốn là, Đảng cộng sản Việt Nam lãnh đạo Nhà nước và xã hội

Sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với NNPQ XHCN là một đặc trưng quan trọng của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Đặc điểm này luôn chi phối quá trình đổi mới, cải cách bộ máy nhà nước. Đảng có vai trò quyết định đến sự thành công của xây dựng NNPQ XHCN và nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay.

Thứ nhất, Đảng lãnh đạo bằng cương lĩnh chính trị, đường lối, chủ trương, nghị quyết của Đảng. Từ ngày có Đảng, đặc biệt với đường lối đổi mới, các cương lĩnh, đường lối, chủ trương của Đảng luôn hướng tới xây dựng một nước Việt Nam độc lập, có nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân, một xã hội xã hội chủ nghĩa do nhân dân làm chủ, huy động mọi nguồn lực đề xây dựng một nước Việt Nam dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Đảng lãnh đạo Nhà nước thể chế hóa cương lĩnh, đường lối, chủ trương của Đảng thành Hiến pháp, pháp luật, quy phạm pháp luật, cụ thể hóa thành các kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội và lãnh đạo nhân dân thực hiện có hiệu quả. Vì vậy, hệ thống pháp luật trong nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thể hiện đậm nét sự lãnh đạo của Đảng. Điều này làm nên đặc trưng của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

Thứ hai, Đảng định hướng nhận thức và tư tưởng, quan điểm trong việc đặt ra và   giải quyết các vấn đề trọng đại của đất nước, hoặc các vấn đề cụ thể nhưng có ý nghĩa chính trị quan trọng quan hệ tới các tầng lớp nhân dân đông đảo hoặc quan hệ đến lĩnh vực đối ngoại. Đảng viên của Đảng nêu gương, đi đầu trong việc chấp hành pháp luật, tinh thần trách nhiệm, hi sinh vì quyền lợi của Tổ quốc, của dân tộc, của nhân dân.

Thứ ba, Đảng lãnh đạo bằng công tác tổ chức và cán bộ, thông qua việc giới thiệu cán bộ đủ năng lực, phẩm chất và uy tín để ứng cử hoặc bổ nhiệm vào cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội, lãnh đạo xây dựng bộ máy đảng, bộ máy nhà nước, bộ máy các đoàn thể trong sạch, vững mạnh.

Thứ tư, Đảng lãnh đạo thông qua các tổ chức đảng trong các cơ quan nhà nước và đoàn thể (đảng đoàn, ban cán sự, đảng ủy) kết hợp chặt chẽ với cá nhân đảng viên hoạt động trong cơ quan nhà nước và đoàn thể theo nguyên tắc tập trung dân chủ và nêu cao vai trò trách nhiệm của đảng viên là người đứng đầu cơ quan, đơn vị.

Thứ năm, Đảng lãnh đạo thông qua công tác kiểm tra, giám sát hoạt động của bộ máy nhà nước và các đoàn thể thông qua tổ chức đảng, đội ngũ cán bộ, đảng viên, các ban của Đảng, đồng thời lãnh đạo, tổ chức, động viên quần chúng nhân dân kiểm tra, giám sát, phản biện công việc và hoạt động của cơ quan nhà nước, của cán bộ trong bộ máy công quyền, phát hiện mặt tích cực để phát huy, mặt yếu kém để uốn nắn, khắc phục.

Đảng lãnh đạo các tổ chức chính trị - xã hội nhưng không áp đặt mà bằng cơ chế dân chủ, tôn trọng tính tự chủ của các đoàn thể, phù hợp với tôn chỉ, đặc điểm, chức năng của từng đoàn thể.

Tính chất pháp quyền và dân chủ trong sự lãnh đạo của Đảng thể hiện ở chỗ: Đảng lãnh đạo Nhà nước và xã hội, nhưng Đảng hoạt động trong khuôn khố Hiến pháp và pháp luật, chịu sự giám sát của nhân dân, chịu trách nhiệm trước nhân dân về các quyết định của mình.

Như vậy, có thể nói rằng về lý luận và thực tiễn, nhà nước pháp quyền ra đời là vì mục tiêu dân chủ, là kết quả của đấu tranh giành tự do dân chủ của nhân loại qua hàng trăm năm. Cũng cần khẳng định rằng, pháp luật tối thượng, quản lý xã hội bằng luật là cơ sở của nhà nước pháp quyền, một đặc trưng của nhà nước pháp quyền, nhưng không phải là bản chất của nhà nước pháp quyền. Từ rất sớm, ngay từ khi có nhà nước, thì việc quản lý bằng luật đã ra đời, thậm chí từng có những mô hình nhà nước coi trọng luật pháp (nhà nước pháp trị) nhưng nếu luật pháp của nhà nước không mang tính chất dân chủ và nhân dân thì đó không phải là nhà nước pháp quyền. Có thể nói rằng, bản chất của nhà nước pháp quyền là chủ quyền nhân dân đối với nhà nước, hay nói cách khác là pháp luật hóa chủ quyền nhân dân, cũng có nghĩa là pháp quyền hóa dân chủ. Điều đó nói lên tầm quan trọng và vị trí từng vấn đề trong mối quan hệ giữa nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay

Ở Việt Nam, từ năm 2019, Hồ Chí Minh đã nhận thức đúng đắn những giá trị của NNPQ và luôn luôn muốn xây dựng một NNPQ ở Việt Nam. Trong 30 năm bôn ba tìm đường cứu nước Hồ Chí Minh đã nghiên cứu nhiều bản Hiến pháp, nhiều mô hình nhà nước khác nhau, từ Mỹ, Anh, Pháp, Nga Xô viêt, Tàu… Trong tư tưởng của Hồ Chí Minh về Nhà nước Việt Nam. luôn luôn là một mô hình nhà nước dân chủ, pháp quyền, trong đó đề cao các giá trị dân tộc độc lập, dân quyền tự do, dân sinh hạnh phúc.

Khi về nước trực tiếp lãnh đạo cách mạng Việt Nam năm 1941, Hồ Chí Minh đã không áp dụng nguyên xi bất kỳ mô hình nhà nước nào mà sáng tạo ra một mô hình nhà nước dân chủ-pháp quyền Việt Nam, mà những nét phác thảo đầu tiên là trong Chương trình Việt Minh (1941) và khá rõ ràng đầy đủ trong Hiến pháp 1946. Sự khác nhau căn bản trong hai mô hình Nhà nước Xô viết là nhà nước của công nông, thực hiện chuyên chính của giai cấp vô sản đối với các giai cấp phi vô sản, còn mô hình nhà nước ở Việt Nam mà Hồ Chí Minh chọn là “Dân chủ cộng hòa”, nhà nước của toàn thể nhân dân Việt Nam không phân biệt trai gái, dòng giống, giai cấp, tôn giáo, miễn là nhất tề đứng lên chống thực dân pháp, giải phóng dân tộc. Tư tưởng này đã được thông qua tại Hội nghị Trung ương lần thứ 8 (5-1941). Nghị quyết Hội nghị chỉ rõ: “không nên nói công nông liên hiệp và lập chính quyền Xô viết mà phải nói toàn thể nhân dân liên hợp và lập chính phủ dân chủ cộng hòa”[2]. Chương trình Việt Minh cũng ghi rõ: “Sau khi đánh đuổi được đế quốc Pháp, Nhật, sẽ thành lập một chính phủ nhân dân của Việt Nam, Dân chủ, Cộng hòa… Chính phủ ấy do quốc dân đại hội cử ra”[3].

Sau thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945, dưới sự lãnh đạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh Đảng ta và nhân dân ta đã bắt tay ngay vào xây dựng một nhà nước kiểu mới, một nền dân chủ mới: thực hiện tổng tuyển cử để tổ chức ra Nhà nước, thông qua Hiến pháp 1946. Có thể nói, toàn bộ nỗ lực của Đảng, Nhà nước và nhân dân trong một năm ngắn ngủi, năm 1946 là để xây dựng một nhà nước pháp quyền và một nền dân chủ hiện đại, mà những chế định của Hiến pháp, các văn bản quy phạm pháp luật của Nhà nước, tư tưởng của các nghị quyết, chủ trương của Đảng, bài nói, bài viết của Chủ tịch Hồ Chí Minh còn nguyên giá trị tiến bộ, văn minh, tiên phong và cho đến ngày hôm nay.

Một chế độ chính trị mà cốt lõi là NNPQ XHCN và nền dân chủ XHCN dưới sự lãnh đạo của Đảng ta trải qua nhiều giai đoạn thăng trầm bởi nhiều lý do khách quan, chủ quan từ kháng chiến chống đế quốc (30 năm), phá thế bao vây cấm vận (20 năm), đến tư duy giáo điều, thiếu sáng tạo…cuối cùng được khẳng định lại lần đầu tiên tại Hội nghị Ban chấp hành Trung ương lần thứ Hai khóa VII năm 1991. Cho đến nay qua các kỳ Đại hội VIII, IX, X, XI, XII, XIII, qua Cương lĩnh xây dựng đất nước thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (1991 và bổ sung phát triển 2011), qua các Hiến pháp 1992, 2013, qua hệ thống pháp luật quốc gia, việc xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và nền dân chủ xã hội chủ nghĩa đều được Đảng ta làm rõ, bổ  sung, hoàn thiện.

Trong tám phương hướng cơ bản xây dựng đất nước đến giữa thế kỷ XXI, Cương lĩnh Đảng ta (bổ sung phát triển năm 2011) đã xác định:

 Sáu là, xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, thực hiện đại đoàn kết toàn dân tộc, tăng cường và mở rộng mặt trận dân tộc thống nhất.

Bảy là, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân.

Nền dân chủ xã hội chủ nghĩa là bản chất của chế độ chính trị Việt Nam, trong đó Đảng ta xác định “Dân chủ vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển đất nước”. Nhà nước pháp quyền là phương thức làm chủ của nhân dân. “Nhân dân thực hiện quyền làm chủ thông qua hoạt động của Nhà nước, của cả hệ thống chính trị và các hình thức dân chủ trực tiếp, dân chủ đại diện.” (Cương lĩnh 2011, mục IV)). Nhà nước tôn trọng và bảo đảm các quyền con người, quyền công dân; chăm lo hạnh phúc, sự phát triển tự do của mỗi người. Quyền và nghĩa vụ công dân do Hiến pháp và pháp luật quy định. Quyền của công dân không tách rời nghĩa vụ công dân.

 Quan điểm này càng được nhấn manh từ khi chúng ta chủ trương xây dựng nhà nước pháp quyền. “Nhà nước ta là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Tất cả quyền lực Nhà nước thuộc về nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo. Quyền lực Nhà nước là thống nhất; có sự phân công, phối hợp và kiểm soát giữa các cơ quan trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp. Nhà nước ban hành pháp luật; tổ chức, quản lý xã hội bằng pháp luật và không ngừng tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa.

Nhà nước phục vụ nhân dân, gắn bó mật thiết với nhân dân, thực hiện đầy đủ quyền dân chủ của nhân dân, tôn trọng, lắng nghe ý kiến của nhân dân và chịu sự giám sát của nhân dân; có cơ chế và biện pháp kiểm soát, ngăn ngừa và trừng trị tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí, vô trách nhiệm, lạm quyền, xâm phạm quyền dân chủ của công dân; giữ nghiêm kỷ cương xã hội, nghiêm trị mọi hành động xâm phạm lợi ích của Tổ quốc và của nhân dân. (Cương lĩnh 2011)

Những nội dung này được chế định rõ trong Điều 2 và Điều 3 của Hiến pháp năm 2013.

Có thể nói rằng, dân chủ xã hội chủ nghĩa là mục tiêu của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, nó có vai trò quy định nội dung, hình thức của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa là là phương thức trung tâm để nhân dân thực hành dân chủ.

  1. Mối quan hệ giữa nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, thực trạng, vấn đề và giải pháp

Về phần thực trạng, bài viết chỉ nêu khái quát một số vấn đề lớn:

2.1. Về chủ quyền nhân dân, trước hết là vai trò của nhân dân trong quyết định hình thức và phương thức hoạt động của nhà nước

- Trước hết nói vè bầu cử dân chủ, đây là một thể chế để nhân dân tổ chức ra các cơ quan quyền lực nhà nước.

Bầu cử là một hình thức ủy quyền và biểu thị sự tín nhiệm của công dân - cử tri (hoặc người bầu cử) bằng những nguyên tắc và thủ tục nhất định để chọn (ít nhất là từ hai lấy một) người đại diện của mình vào các cơ quan quyền lực nhà nước, hoặc các chức vụ của cơ quan nhà nước. Mối quan hệ giữa nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và nền dân chủ xã hội chủ nghĩa được khởi nguồn từ đây. Việc nhân dân thông qua bầu cử dân chủ để bầu ra những đại diện xứng đáng vào các cơ quan quyền lực nhà nước, tổ chức ra bộ máy nhà nước, là bước quan trọng đầu tiên, làm tiền đề để thực hiện ý chí nhân dân sau này. 

Trong một chế độ dân chủ, bầu cử có chức năng, vai trò rất quan trọng. Nó nói lên tính hợp pháp, tính chính đáng của sự ủy quyền, thể hiện được ý chí của nhân dân bằng lá phiếu. Ngày nay trong điều kiện bình thường (không có chiến tranh, không có tình trạng khẩn cấp), ở các nền dân chủ, bầu cử là con đường duy nhất để các đảng chính trị, mà đằng sau đó là các nhóm dân cư, các tập đoàn xã hội tham gia vào cấu trúc nhà nước, giành chính quyền nhà nước, nhằm thực hiện tối đa quyền lực chính trị của họ.

Ở Việt Nam bầu cử dân chủ lần đầu tiên được thực hiện trong Tổng tuyển cử tháng 1-1946. Đây là một cuộc tổng tuyển cử dân chủ điển hình, mẫu mực mang tính pháp quyền, dân chủ rõ rệt. Trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, do điều kiện chiến tranh, các cuộc bầu cử không thể thực hiện được trọn vẹn. Trong giai đoạn tập trung, quan liêu, bao cấp, nhìn chung các cuộc bầu cử rất nặng về hình thức. Trong thời kỷ đổi mới, các cuộc bầu cử ngày càng thực chất dân chủ hơn, đặc biệt là những năm gần đây, chúng ta có nhiều đổi mới trong công tác bầu cử, pháp luật về bầu cử và tổ chức bầu cử ngày càng hoàn thiện, người dân (các cộng đồng dân cư) đã có thể giới thiệu người mình tín nhiệm ứng cử, tự ứng cứ tham gia hiệp thương; số dư của các ứng cử viên so với số được bầu ngày càng lớn; tình trạng “quân xanh”, “quân đỏ”, nặng về cơ cấu, nhẹ chất lượng đã giảm đáng kể; đã có các cuộc vận động bầu cử để các ứng cử viên trình bày chương trình hành động của mình…Kết quả là các đại biểu ngày càng có chất lượng cao hơn, trình độ học vấn, năng lực, uy tín ngày càng đảm bảo. Quyền giám sát của cử tri đối với đại biểu, với các cơ quan nhà nước tăng lên nhất là thông qua hình thức góp ý vào bản ý kiến cử tri của Mặt trận Tổ quốc trước mỗi kỳ họp Quốc hội, Hội đồng nhân dân, qua các phiên chất vấn.

Tuy nhiên, tính hình thức vẫn còn khá nặng; tỉ lệ người dân đi bầu rất cao, nhưng sự quan tâm của người dân đối với bầu cử, đối với chương trình hành động của các ứng cử viên còn rất thấp. Một bộ phận dân cư ỉ lại vào sự giới thiệu của các tổ chức đảng, khả năng trúng cử của các ứng cử viên không qua sự giới thiệu của tổ chức đảng không cao. Điều quan trọng là những vị trí trực tiếp làm việc với dân, như chủ tịch UBND các cấp vẫn chưa được dân bầu trực tiếp. Quyền bãi miễn gián tiếp hoặc trực tiếp còn chưa áp dụng rộng rãi. Thực hiện quyền bãi miễn là một tiêu chí của chế độ dân chủ. Dân chủ chân chính chỉ có thể có được, theo Lenin chỉ khi nào quyền bãi miễn cử tri đối với người đại diện của họ được thừa nhận và áp dụng.

- Tham gia công việc của nhà nước.

Mức độ tham gia của công dân vào công việc của nhà nước là một tiêu chí của một chế độ dân chủ và là một yếu tố quan trọng thực hiện quyền lực của nhân dân. Điều kiện để nhân dân tham gia vào công việc của nhà nước và xã hội là:

+ Chế độ nhà nước là một chế độ dân chủ, có nghĩa là nhà nước pháp quyền.

+ Nhân dân có ý thức và khả năng thực tế thực hiện quyền làm chủ của mình.

+ Cơ chế vận hành của nền dân chủ (ở nước ta là Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ), tạo ra mọi điều kiện để nâng cao dân trí, phát huy tinh thần, năng lưc thực hành dân chủ cho nhân dân.

Cũng cần thấy rằng, ở các nước độc tài, chuyên chế, mức độ nhân dân tham gia và công việc của nhà nước và xã hội đang rất hạn chế hoặc hình thức, thiếu chủ động và bền vững. Nguyên nhân chính là do còn thiếu các điều kiện pháp lý, kinh tế- xã hội cần thiết và cơ chế đảm bảo hiệu quả cho sự tham gia của nhân dân.

- Nhân dân kiểm soát hoạt động của nhà nước

Trong nền dân chủ nói chung, trong nền dân chủ xã hội chủ nghĩa nói riêng, nhân dân ủy quyền cho nhà nước, công chức nhà nước, không có nghĩa là sẽ mất quyền, mà nhân dân luôn luôn sự giám sát hoạt động các cơ quan nhà nước và công chức nhà nước được. Các quy định về giám sát phải rõ ràng và đầy đủ trong hệ thống pháp luật. Hoạt động của các cơ quan nhà nước ngày càng buộc phải công khai, minh bạch. Trách nhiệm giải trình ngày càng mở rộng, nhân dân ngày càng có cơ hội tiếp cận các thông tin hoạt động của Nhà nước, các cơ quan nhà nước. Nhân dân đồng tình và tích cực tham gia vào cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực.

Tuy nhiên, vẫn chưa có sự sẵn sàng từ phía các cơ quan nhà nước, công chức nhà nước cho sự giám sát của nhân dân. Vẫn tồn tại những vùng “tối”, vùng “mờ” trong hoạt động của nhà  nước mà nhân dân khó tiếp cận. Sự giám sát của nhân dân chủ yếu tập tung váo lĩnh vực sinh hoạt, tư cách đạo đức. Năng lực giám sát từ phía người dân và các cơ quan đại diện cho nhân dân như Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể còn hạn chế, khó khăn nhiều mặt, hiệu lực pháp lý của hoạt động giám sát của các tổ chức này chưa cao.

- Nhân dân thực hiện các quyền tự do chính trị hợp pháp, chính đáng (ứng cử, bầu cử, biểu đạt ý kiến, lợi ích, lập hội, hội họp, biểu tình v.v… theo luật định)

Các nhà tư tưởng chính trị từ thời khai sáng cho đến Mác, Ănghen, Lênin và Hồ Chí Minh đều coi dân chủ là tự do, trong đó có tự do chính trị như là giá trị đặc trưng của chế độ dân chủ.

Trong các quyền tự do chính trị nói trên, hiện nay luật pháp của chúng ta còn thiếu, nhất là về các hình thức biểu đạt ý kiến, lập hội, biểu tình. Nhiều cơ quan chức năng nhà nước tỏ ra lúng túng với những hiện tượng mới về biểu đạt ý kiến trên mạng xã hội, với các đăng ký lập hội, với các cuộc biểu tình tự phát…Còn có quan niệm cho rằng trong những lĩnh vực này nếu không có luật thì dễ xử lý vi phạm hơn là có luật.

- Quyền kinh tế là cơ sở để thực hiện quyền lực chính trị

Quyền kinh tế, thực chất là quyền được hoạt động sản xuất, kinh doanh và dịch vụ - quyền hoạt động kinh tế. Các quyền hoạt động kinh tế trong nền dân chủ nước ta, từ khi đổi mới được mở rộng nhanh chóng, đã phát huy mạnh mẽ tinh thần làm chủ của nhân dân trong lao động, sản xuất, kinh doanh. Đó cũng là một trong những nguyên nhân quan trọng làm khởi sắc bộ mặt sinh hoạt dân chủ ở nước ta; nguyên nhân của thành tích kinh tế ở nước ta.

Tuy nhiên, cũng cần thấy rằng, còn một tồn tại dai dẳng hàng chục năm là vấn đề đất đai, tư liệu sản xuất cơ bản của người dân và doanh nghiệp. Có khoảng 75 đến 80% đơn thư khiếu nại tố cáo liên quan đến đất đai, cũng với tỉ lệ như vậy trong các xung đột xã hội và điểm nóng xã hội, điểm nóng chính trị - xã hội. Vi phạm dân chủ trong kinh tế, chủ yếu cũng trên lĩnh vực đất đai.

- Điều quan trọng nhất trong chủ quyền nhân dân là chế định trưng cầu dân ý.

Chế dịnh trưng cầu dân ý, liên quan đến một vấn đề quan trọng trong tổ chức và vận hành nhà nước. Về nguyên tắc chủ quyền nhà nước thuộc về nhân dân. Nhưng nhân dân không trực tiếp thực thi quyền lực nhà nước liên tục được. Vì vậy họ ủy quyền cho đại của mình thực hiện. Việc ủy quyền và thay mặt nhân dân thực thi quyền lực nhà nước được thực hiện bởi một “khế ước xã hội”, mà ngáy nay chúng ta gọi là Hiến pháp. Trong đó quy định rõ hình thức, nội dung, phương thức và phạm vi vận hành bộ máy nhà nước và thực thi quyền lực của nhân dân. Khi nhà nước muốn giải quyết một vấn đề ngoài chế định của Hiến pháp, có nghĩa là thực hiện một vấn đề mà nhân dân chưa ủy quyền. Lúc đó phải hỏi dân, tức trưng cầu dân ý. Luật phải quy định rõ việc tổ chức trưng cầu dân ý. Việc soạn thảo, ban hành và trưng cầu dân ý đối với Hiến pháp có ý nghĩa đặc biệt mang tính biểu tượng của nhà nước pháp quyền. Nước ta đã từng có một tiền lệ tốt là năm 1946, quy trình lập hiến dân chủ, mặc dù lần đầu tiên được thực hiện ở nước ta, nhưng dưới sự lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh quy trình đó đạt chuẩn mực của nhà nước pháp quyền. Cho đến nay, ở nước ta, chế định trưng cầu dân ý chưa được sử dụng.

Hiện nay, chúng ta đã có Luật Trưng cầu dân ý 2015, chúng ta cần áp dụng theo yêu cầu của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và nền dân chủ xã hội chủ nghĩa.

2.2. Về hệ thống pháp luật của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam

Khi pháp luật đã thực sự là pháp luật của nhà nước pháp quyền thì luật pháp ngự trị tối cao. Muốn đạt được điều đó, phải có đầy đủ pháp luật và luật tốt, nhân dân phải có hiểu biết về pháp luật. Như trên đã nói, phải tạo ra một trạng thái xã hội, trong đó người chấp hành pháp luật phải có lợi hơn người vi phạm pháp luật.

Để đảm bảo tính tối thượng của pháp luật trong nhà nước pháp quyền, yêu cầu về làm luật rất cao, đòi hỏi cơ quan lập pháp phải là một cơ quan chuyên nghiệp, có năng lực lập pháp; cơ quan hành pháp phải nghiêm khắc và tích cực thực thi pháp luật; cơ quan tư pháp phải công minh, độc lập trong quá trình xét xử những ai vi phạm pháp luật. Trong nhà nước pháp quyền, dù luật được làm ra nhiều, được thực thi rộng rãi, nhưng tư pháp không công minh thì pháp luật mất vị trí tối thượng. Vì vậy, cần nhấn mạnh rằng, quyền tư pháp có vai trò đặc biệt trong việc xây dựng một nhà nước pháp quyền.

Hiện nay, chúng ta đã có khoảng 250 luật và bộ luật đang còn hiệu lực pháp lý. Nhìn chung, trong tất cả mọi lĩnh vực của đời sống xã hội đều đã có luật điều chỉnh. Chất lượng làm luật và nội dung các luật, bộ luật của nước ta ngày càng tốt hơn, có xu hướng cập nhật với yêu cầu của nhà nước pháp quyền và nền dân chủ xã hội chủ nghĩa.

Tuy nhiên cũng cần thầy rằng chúng ta chưa đủ luật, đặc biệt là các luật liên quan đến quyền dân chủ của nhân nhân, đã được Hiến pháp chế định. Luật của chúng ta vẫn ở trong tình trạng luật khung, “luật ống”; luật đã ban hành nhưng chưa thi hành được ngay. Vẫn tồn tại tình trạng luật chờ nghị định, nghị định chờ thông tư, thông tư chờ thủ trưởng. Do tính chất như vậy, hiệu lực pháp lý của luật không đảm bảo tính tối thượng, phụ thuộc vào nghị định, thông tư là những văn bản hướng dẫn thi hành luật, nhưng lại có thể đưa ra cách giải thích luật khác với Quốc hội.

Ở nước ta, chủ thể của sáng kiến lập pháp khá rộng rãi. Tuy nhiên gánh nặng và trách nhiệm làm luật nằm trên vai chính phủ (90% các luật và bộ luật là do Chính phủ trình). Mỗi bộ luật cụ thể, Chính phủ giao cho các bộ, các bộ giao cho các vụ chức năng liên quan dự thảo. Vì vậy, ngoài những hạn chế đã nêu, các luật của Nhà nước ta mang đậm dấu ấn điều hành và năng lực cùa các cơ quan hành chính của Chính phủ. Nghĩa là làm sao, để chính phủ và các cơ quan hành chính các cấp có thể thuận tiện, dễ dàng trong thực hiện các chỉ thị, mệnh lệnh hành chính. Tình trạng “cái gì không quản lý được thì cấm” thể hiện rõ đặc tính quan liêu không chỉ trong quản lý, mà còn thể hiện trong luật. Đây cũng là lý do mà các Chương trình tổng thể cải cách hành chính của nước ta không đạt được như kỳ vọng. Nguyên nhân có thể có nhiều, nhưng chủ yếu là do năng lực làm luật của Quốc hội. Trong lúc đó, năng lực làm luật của Quốc hội lại phụ thuộc vào cách tổ chức, năng lực đại biểu và tính chuyên nghiệp của Quốc hội.

Ngoài số lượng và chất lượng của luật, vấn đề còn đặt ra là sự xung đột giữa luật, bộ luật; giữa luật và các văn bản quy phạm pháp luật khác còn khá nhiều, thậm chí ngay trong một luật cũng xung đột giữa luật và nghị định hoặc thông tư.

2.3. Về vai trò của Quốc hôi-cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất trong nền dân chủ xã hội chủ nghĩa.

Trong hoạt động lập pháp của Quốc hội đang tồn tại một số vấn đề cần được giải quyết cả trên phương diện lý luận và thực tiễn như:

- Năng lực lập pháp của Quốc hội còn hạn chế, chưa phát huy quyền đưa sáng kiến lập pháp và trình các dự án luật của các cơ quan thuộc Quốc hội, của các Đại biểu Quốc hội.

- Thẩm quyền ban hành luật và văn bản quy phạm pháp luật của Quốc hội còn được trao cho cả Quốc hội và UBTV Quốc hội (là cơ quan đúng ra, chỉ duy trì hoạt động của Quốc hội khi Quốc hội không họp).

- Tính tối thượng của pháp luật bị hạn chế và xói mòn bởi luật khung, luật “ống” luật phụ thuộc vào các văn bản dưới luật để cụ thể hóa và hướng dẫn triển khai.

- Tính chuyên nghiệp trong tổ chức và hoạt động của Quốc hội chưa cao.  

Một Quốc hội chuyên nghiệp, trước hết là đa số, nếu không nói là hầu hết các đại biểu phải chuyên nghiệp. Đại biểu Quốc hội ở nước ta khóa 15 (cao nhất), mới có khoảng 40% chuyên trách, trong số đó chưa phải 100% là chuyên nghiệp. Số đại biểu kiêm nhiệm còn nhiều, đặc biệt là nhiều đại biểu đến từ các cơ quan hành chính, tòa án, viện kiểm sát các cấp.

- Thời gian họp của Quốc hội còn ít (mỗi năm khoảng 2 tháng).

- Tổ chức bộ máy hoạt động của Quốc hội còn cồng kềnh, khó hoạt động, chưa phù hợp tính chất của đại biểu được ủy quyền tự do (dù bầu lên ở đâu, vẫn là đại diện cho cử tri cả nước). Việc tổ chức các “Đoàn đại biểu” của các địa phương đã làm giảm ý nghĩa của phương thức ủy quyền tự do. Phương thức này đã được áp dụng từ Hiến pháp năm 1946.

- Còn có sự phân biệt (không bình đẳng) giữa chức năng, nhiệm vụ, vai trò của đại biểu quốc hội. Đó là sự khác nhau giữa đại biểu kiêm nhiệm, đại biểu chuyên trách, và đại biểu trong Ủy ban Thường vụ Quốc hội.

- Vai trò của Quốc hội trong phân công, phối hợp và kiểm soát quyền lực trong thực thi quyền lực nhà nước chưa rõ nét.

Với tư cách là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất, Quốc hội nước ta, khác với quốc hội nhiều nước khác, nắm giữ cả ba quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp. Chính phủ, Tòa án tối cao, Viện kiểm sát nhân tối cao, thậm chí cả Chủ tịch nước…chí là những cơ quan nhà nước được Quốc hội giao cho nhiệm vụ thực thi các quyền hành pháp và tư pháp, phải báo cáo công việc trước Quốc hội. Ngoài ra Quốc hội nước ta còn có chức năng giám sát tối cao các hoạt động của các cơ quan nhà nước. Ưu điểm của cách thiết kế mô hình này, nếu được vận hành đúng, sẽ là mô hình có tính thống nhất cao, thuận lợi cho các hoạt động của Đảng lãnh đạo và có khả năng cao đảm bảo thực hiện quyền dân chủ của nhân dân.

Vấn đề đặt ra là trong mô hình này rất khó để vận hành đúng. Vai trò của Quốc hội trong sự “phân công”, phối hợp giữa các cơ quan nhà nước chưa rõ ràng. Giám sát tối cao còn hình thức, lúng túng, chưa hiệu quả. Nguyên nhân của tình trạng đó, chủ yếu là do Quốc hội của ta, ngoài một bộ máy hành chính thường xuyên, còn lại chủ yếu là kiêm nhiệm, không chuyên trách, chuyên nghiệp; trong lúc đó, Chính phủ, Tòa án, Viện Kiểm sát, chính quyền địa phương là những cơ quan nhà nước chuyên trách, chuyên nghiệp. Ngoài ra, do chúng ta, mặc dù có một số chế định có tính chất bảo hiến, nhưng đang còn thiếu một cơ chế bảo hiến. Vì vậy, cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất vẫn chưa có quyền lực nhà nước cao nhất theo đúng nghĩa của nó.

2.4. Về cơ chế Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Nhân dân làm chủ

Đây là cơ chể tổng thể, phản ánh những mối quan hệ cơ bản của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Trong cơ chế đó, mỗi chủ thể đóng vai trò vị trí khác nhau, phối hợp với nhau, kiểm soát lẫn nhau, tạo ra động lực của cơ chế, phát huy tính hiệu quả của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa và đã được chế định trong Hiến pháp. Tuy nhiên, cho đến nay, nhận thức về vận hành cơ chế này, từ phối hợp thống nhất hành động, cho đến kiểm soát quyền lực trong từng chủ thể, và trong toàn bộ mối quan hệ của cơ chế vẫn chưa được nhận thức đầy đủ, chưa được cụ thể hóa.

Vấn đề này đã tồn tại từ lâu. Văn kiện Đại hội đại biểu đảng toàn quốc lần thứ XIII (1921), cũng đã chỉ rõ: Công tác tư tưởng có lúc, có nơi chưa chưa kịp thời, tính thuyết phục chưa cao; công tác lý luận chưa đáp ứng yêu cầu; còn có nội dung chưa thống nhất giữa chính sách pháp, luật của Nhà nước và các quy định của Đảng…Cơ chế Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ trong nền dân chủ xã hội ở nước ta là vấn đề cấp bách luôn được đặt ra và chưa được giải quyết đầy đủ, rõ ràng. “Phương thức lãnh đạo của Đảng đối với hệ thống chính trị còn chậm đổi mới, có mặt còn lúng túng. Cơ chế kiểm soát quyền lực trong Đảng và Nhà nước chưa đầy đủ, đồng bộ, hiệu lực, hiệu quả chưa cao.”[4]

Hệ quả tiêu cực có thể xẩy ra nếu phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước không được chế định và áp dụng rõ ràng. Việc Đảng trở thành đảng duy nhất cầm quyền, làm cho mối quan hệ giữa Đảng và Nhà nước rất chặt chẽ đến mức “hóa thân” vào nhau, nhưng vấn đề đặt ra là không Đảng hóa Nhà nước và không Nhà nước hóa Đảng. Không để “nhầm lẫn” giữa quyền lực của Đảng và quyền lực Nhà nước, không để Đảng trùm lên nhà nước hay Nhà nước trùm lên Đảng. Nếu xẩy ra tình trạng đó, hệ thống quyền lực sẽ bị rối loạn, tê liệt, mặc dù nhìn bên ngoài có vẻ rất tiện dụng.

2.5. Một số quan điểm, giải pháp, kiến nghị hoàn thiện mối quan hệ giữa Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam và nền dân chủ xã hội chủ nghĩa

1) Quan điểm:

- Quán triệt các quan điểm của Đảng, những định hướng về đổi mới tổ chức và hoạt động của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam và nền dân chủ xã hội chủ nghĩa đã được đề ra trong Cương lĩnh (2011), trong Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc của Đảng lần thứ XIII. Đó là những quan điểm, định hướng đúng đắn, đổi mới và có tính phát triển. Cần được tổ chức, triển khai thực hiện đầy đủ trên thực tế. Bài tham luận xin nêu một số quan điểm, giải pháp và kiến nghị cá nhân sau:

- Thực hiện tư tưởng chỉ đạo xuyên suốt là kiên định và vận dụng, phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước pháp quyền và nền dân chủ xã hội chủ nghĩa. Đặc biệt là tư tưởng Hồ Chí Minh – người sáng lập và rèn luyện Đảng ta, nhà lập quốc Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, nay là Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước dân chủ, thể hiện rõ nhất trong Hiếp pháp 1946. Đó là một di sản tư tưởng vô giá, vẫn mang giá trị tiên phong, hiện đại, cập nhật mà chúng ta may mắn thứa hưởng.

  1. Kiến nghị và giải pháp:

- Trước hết và căn bản là đổi mới nhận thức, cách thức tổ chức thực hiện chủ quyền nhân dân trong xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Những nội dung chính cần thực hiện:

- Khi có điều kiện sửa đổi Hiến pháp 2013, cần làm rõ cơ chế bảo hiến, chế định rõ vai trò của xã hội công dân, thực hiện trưng cầu dân ý đối với Hiến pháp.

- Hoàn thiện hệ thống pháp luật, cố gắng để trong tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hôi, đối với mọi hành vi của các cơ quan nhà nước, của tổ chức ngoài nhà nước, doanh nghiệp và công dân đều có luật điều chỉnh. Nội dung của các luật, bộ luật, văn bản quy phạm pháp luật phải rõ ràng, thống nhất, không xung đột, mang tính hệ thống, hiện đại và có thể cập nhật và có hiệu lực pháp lý ngay sau khi ban hành. Muốn vậy:

- Để có luật tốt theo chuẩn mực pháp quyền, cần đổi mới hoạt động lập pháp của Quốc hội, nâng cao năng lực lập pháp của Quốc hội, các Ủy ban và đại biểu Quốc hội. Chính phủ có quyền trình dự án luật, nhưng chủ yếu theo nhu cầu của Chính phủ (không làm thay Quốc hội) và nên tập trung vào những luật liên quan đến hoạt động điều hành của Chính phủ. 

- Xây dựng một Quốc hội chuyên nghiệp. Hầu hết các đại biểu quốc hội là đại biểu chuyên nghiệp, đủ phẩm chất, năng lực, uy tín thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của quốc hội. Không hạn chế độ tuổi của đại biểu Quốc hội, mỗi nhiệm kỳ chỉ bầu mới 1/3, vì vậy, có thể buộc phải rút ngắn, nhiệm kỳ của đại biểu Quốc hội, nhưng không ảnh hưởng đến nhiệm kỳ của các chức danh được Quốc hội bầu.

- Nghiên cứu xây dựng Quốc hội hai viện. Thượng viện là các đại biểu chăm lo cho lợi ích quốc gia, chủ thể quốc gia (các địa phương, một số bộ ngành); Hạ viện là các đại biểu đại diện cho cử tri, bầu theo ti lệ dân cư. Hạ viện họp thường xuyên, Thượng viện không họp thường xuyên.

- Nghiên cứu đổi mới mô hình tổ chức và vận hành của hệ thống chính trị, trước hết là bộ máy nhà nước. Làm rõ chế định Chủ tịch nước, tăng vai trò của Chủ tịch nước với tư cách là người đại diện cho quốc gia trong thống nhất, phối hợp và kiểm soát quyền lực giữa các cơ quan nhà nước. Chủ tịch nước có thể được dân bầu trực tiếp song song với đại biểu Quốc hội. Xác định rõ hơn mối quan hệ và vai trò của Người đứng đầu Đảng và người đứng đầu quốc gia, có thể  nhất thể hóa hai chức danh này, coi đó là một yếu tố quan trọng trong đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng. Cần có luât về Chủ tịch nước, như luật về các cơ quan nhà nước khác: Quốc hội, Chính phủ, Tòa án và Viện Kiểm sát nhân dân, chính quyền địa phương…

- Bản chất của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa là quyền làm chủ của toàn thể nhân dân. Nhưng nhân dân lại tồn tại dưới các hình thức cộng đồng, tập thể, tổ chức. Các chế định hiện hành về các tổ chức, các cộng đồng công dân khá nhiều, nhưng chưa đủ và thiếu tính khái quát. Nên có luật về xã hội công dân, tạo điều kiện cho các hính thức tổ chức, cộng đồng của công dân tồn tại và hoạt động theo pháp luật. Cũng có nghĩa là giải quyết mối quan hệ giữa Nhà nước, thị trường và xã hội mà Nghị quyết Đại hội XIII đã đề ra.

- Sớm ban hành luật liên quan đến các quyền của công dân, đã được Hiến pháp nước ta chế định như: quyền biểu đạt chính kiến, quyền lập hội, quyền biểu tình hòa bình. Đây là những vấn đề không trực tiếp liên quan đến sinh kế, nhưng nhạy cảm và quan trọng đối với trong nước và thế giới, liên quan đến trình độ văn minh của nhà nước pháp quyền.

- Đảng chủ trương “đẩy mạnh phân cấp, phân quyền”. Có thể nói, khó có thể thêm cấp hành chính ở nước ta. Nhưng phân quyền là rất quan trọng và rất cần thiết. Theo chiều ngang, chế định rõ và cụ thể, không bình quân chức năng, vai trò, phạm vi của các cơ quan nhà nước các cấp. Theo chiều dọc, thực hiện phân quyền cụ thể cho từng cấp, từng đơn vị hành chính trên các địa bàn lãnh thổ khác nhau và trong từng bộ, ngành. Điều này giúp tinh giản biên chế, hạn chế bổ nhiệm tùy tiện với số lượng lớn các cấp phó (giúp cho cấp trưởng)

- Xây dựng cơ chế kiểm soát quyền lực trong Đảng, trong Nhà nước, trong tổng thể hệ thống chính trị.

  Khi quyền lực đã bị tha hóa, không bị kiểm soát thì trở nên nguy hiểm cho xã hội, nó tước đoạt tự do, nhân phẩm, thậm chí tùy tiện tước đoạt mạng sống của con người. Vì vậy, kiểm soát quyền lực trong tổ chức và vận hành nhà nước và hệ thống chính trị trở thành một tất yếu, như là một hệ thống “phanh hãm” của bất kỳ cỗ máy cơ khí nào.

Một là: Giới hạn quyền lực của Đảng.

Giới hạn này ở nước ta được chế định trong Hiến pháp (Điều 4), bởi hai nội dung sau:

Thứ nhất: Đảng cộng sản Việt Nam được chế định “là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội. Giới hạn quyền lực của Đảng là “lực lượng lãnh đạo”, có nghĩa Đảng không phải là Nhà nước, không làm thay Nhà nước, không ra các văn bản quy phạm pháp luật như Nhà nước và không có các công cụ cưỡng chế như Nhà nước.

Thứ hai: “Các tổ chức của Đảng và đảng viên của hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật”. Nội dung này, đặt Đảng bình đẳng trước pháp luật như mọi đối tượng điều chỉnh của pháp luật Việt Nam.

Thứ ba: Nội dung Điều 4 Hiến pháp 2013 chế định: Đảng chịu sự giám sát của Nhân dân, chịu trách nhiệm trước Nhân dân về những quyết định của mình Nhân dân thực hiện quyền giám sát hoạt động của Đảng theo các tiêu chí cụ thể hơn được ghi trong Cương Lĩnh và trong Điều 4 Hiến pháp 2013

Thứ tư: Đảng thực hiện cơ chế “tự kiểm soát” bằng các hình thức sinh hoạt đảng như “tự phê bình và phê bình”, kỷ luật đảng, hoạt động kiểm tra-giám sát của các tổ chức đảng từ chi bộ đến Trung ương theo Điều lệ Đảng.

Giới hạn quyền lực Nhà nước bằng Hiến pháp

Nguyên lý của giới hạn quyền lực nhà nước là nhà nước, cơ quan nhà nước chỉ được làm những gì mà pháp luật cho phép. Một trong những phương thức quan trong để kiểm soát quyền lực Nhà nước là tổ chức bộ máy nhà nước sao cho, các cơ quan quyền lực nhà nước, hoặc thực thi quyền lực nhà nước vừa thống nhất phối hợp hành động, vừa kiểm soát lẫn nhau để không một cơ quan nào có thể lạm quyền. Để kiểm soát được quyền lực nhà nước, cần tách rõ về kỹ thuật (chứ không phải chính trị) giữa chức năng lập pháp và hành pháp rất quan trọng.

Như vậy, để hoàn thiện nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và nền dân chủ xã hội chủ nghĩa là luật hóa các chủ thể, đối tượng, cơ chế, phạm vi  kiểm soát quyền lực của Đảng, của Nhà nước. chủ thể quan trọng nhất trong kiểm soát quyền lực lãnh đạo của Đảng là nhân dân./.

Tài liệu tham khảo:

  1. Đảng Cộng sản Việt Nam (2000), Văn kiện Đảng: Toàn tập, tập 7, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
  2. Đảng cộng sản Việt Nam (2021) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. CTQG, H.

[1] Xã hội công dân Việt Nam là hệ thống các tổ chức của công dân, các cộng đồng công dân Việt Nam và các quan hệ giữa chúng, hoạt động trong khuôn khổ pháp luật quốc gia, nhằm hiện thực hóa các cá nhân và nhân cách, nối các cá nhân với hệ thống xã hội, củng cố và bảo vệ lợi ích cộng đồng. Đồng thời thông qua các tổ chức, các cộng đồng, xã hội công dân phối hợp hoạt động với nhà nước, đảm bảo cho quan hệ giữa nhà nước và xã hội cân bằng, ổn định, tạo các điều kiện tối ưu cho phát triển bền vững và tiến bộ xã hội.

[2] Đảng Cộng sản Việt Nam (2000), Văn kiện Đảng: Toàn tập, tập 7, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội. tr. 127; 150

[3] Đảng Cộng sản Việt Nam (2000), Văn kiện Đảng: Toàn tập, tập 7, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội. tr.127,150

[4] Đảng cộng sản Việt Nam (2021) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. CTQG, H, tr.93.

Phản hồi

Người gửi / điện thoại

Nội dung

 
05-12-2021

Đánh giá

images5342607_my_video_moi3
ba_sche57b288a-ab22-4b92-a4a5-0f3b2fd4cdeb85e2ebd4-b773-4e04-8350-ade5b8771f57
image001
vieclamiaict
Lượt truy cập
Đang truy cập: 4
Trong ngày: 50
Trong tuần: 264
Lượt truy cập: 359977
Lên đầu trang