CHÍNH TRỊ HỌC
Liên quan đến bài này, chúng ta chỉ bàn đến hai loại quyền lực và kiểm soát hai loại quyền lực đó trong một cơ chế vận hành của đời sống chính trị nước ta, là quyền lực chính trị và quyền lực nhà nước.
Mục lục bài viết
KIỂM SOÁT QUYỀN LỰC TRONG
CƠ CHẾ ĐẢNG LÃNH ĐẠO, NHÀ NƯỚC QUẢN LÝ, NHÂN DÂN LÀM CHỦ
Trong đời sống xã hội cũng vậy, có nhiều loại quyền lực, quyền lực xã hội, quyền lực chính trị, quyền lực nhà nước…Liên quan đến bài này, chúng ta chỉ bàn đến hai loại quyền lực và kiểm soát hai loại quyền lực đó trong một cơ chế vận hành của đời sống chính trị nước ta, là quyền lực chính trị và quyền lực nhà nước.
Từ lâu nhân loại đã biết đến việc kiểm soát quyền lực chính trị và quyền lực nhà nước. Ngay từ thời cổ đại, khi nhà nước mới ra đời, Hội nghị nhân dân Aten (Hi Lạp), đã biết sử dụng thủ tục khiển trách, bãi nhiệm hay truy tố các viên chức nhà nước của mình, nếu họ sử dụng quyền lực nhà nước không đúng mục đích và không hiệu quả. Các nhà tư tưởng thời cổ đại đã mô tả và khái quát bước đầu về cách thức kiểm soát quyền lực chính trị, quyền lực nhà nước từ Heeraclit, Platon đến Aristot. Tư tưởng về kiểm soát quyền lực nhà nước được phát triển mạnh ở thời đại Khai sáng mà đỉnh cao là Montesquiue, Rousseau. Montesquieu không những phát triển tư tưởng kiểm soát quyền lực, khẳng định “quyền lực chỉ có thể được kiểm soát bởi quyền lực”, mà còn xây dựng thành một lý thuyết, gọi là thuyết “tam quyền phân lập”.
Nhân loại phải trăn trở nhiều về kiểm soát quyền lực như vậy, bời vì quyền lực chính trị, quyền lực nhà nước (xin gọi tắt là quyền lực), có sức mạnh rất lớn, lại rất dễ bị “tha hóa”, tức dễ bị chiếm dụng, bị sử dụng vì lợi ích vị kỷ của nhóm hoặc của cá nhân, trái với mục đích ban đầu khi tổ chức ra chúng. Khi quyền lực đã bị tha hóa, không bị kiểm soát thì trở nên nguy hiểm cho xã hội, nó tước đoạt tự do, nhân phẩm, thậm chí tùy tiện tước đoạt mạng sống của con người. Vì vậy, kiểm soát quyền lực trong tổ chức và vận hành nhà nước và hệ thống chính trị trở thành một tất yếu, như là một hệ thống “phanh hãm” của bất kỳ cỗ máy cơ khí nào.
Tại Đại hội đại biểu đảng toàn quốc lần thứ VI (1986), Đảng ta khẳng định: "Đảng lãnh đạo, nhân dân làm chủ, Nhà nước quản lý thành cơ chế chung trong quản lý toàn bộ xã hội". Cơ chế này phản ánh và giải quyết các mối quan hệ cốt lõi của xã hội Việt Nam. Vì vậy, Cương lĩnh chính trị của Đảng nhấn mạnh “phải đặc biệt chú trọng nắm vững và giải quyết tốt các mối quan hệ lớn giữa Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ.”[2]
Đây là một cơ chế, giải quyết 3 mối quan hệ chính trị cơ bản nhất ở Việt Nam hiện nay, đó là quan hệ giữa Đảng, Nhà nước và Nhân dân, là giải quyết những vấn đề bản chất nhất của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa mà chúng ta xây dựng ở Việt Nam. Có thể nói đây là vấn đề của mọi vấn đề. Để cho cơ chế này hoạt động tốt, có hiệu quả vừa phải tạo ra động lực cho từng nhân tố và phối hợp hoạt động nhịp nhàng giữa ba nhân tố trong tổng thể. Nhưng để cơ chế hoạt động tốt, không chỉ để cho từng nhân tố và cả cơ chế hoạt động, mà còn kiểm soát hoạt động trong từng nhân tố và cả ba nhân tố, sao cho từng bộ phận và tổng thể cả cơ chế hoạt động đúng mục đích và hiệu quả.
Trước hết nói về vai trò của Đảng cộng sản Việt Nam trong cơ chế đó. Trong cơ chế đó, Đảng cộng sản Việt Nam đóng vai trò lãnh đạo. Quyền lực của Đảng là quyền lực chính trị, là quyền lực của một tổ chức chính trị “đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, Nhân dân lao động và của cả dân tộc”, là “Đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên phong của Nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam” (Điều 4, Hiến pháp 2013). Đảng không phải là Nhà nước, Đảng thực thi quyền lực chính trị của các giai cấp, tầng lớp, lực lượng xã hội mà mình đại diện bằng cách tác động vào nhà nước để thông qua Nhà nước, bằng Nhà nước hiện thực hóa quyền, lợi ích và ý chí của lực lượng xã hội mà mình đại diện.
Con đường thực thi quyền lực chính trị của Đảng cộng sản Việt Nam hay của bất kỳ đảng chính trị nào trên thế giới là ảnh hưởng tối đa vào nhà nước, từ việc đưa đảng viên vào các vị trí trong tổ chức bộ máy đến việc ban hành luật, chính sách và các quyết định của nhà nước. Chức năng đó của các đảng chính trị là chức năng “lãnh đạo” xã hội, tức là đi tiên phong, truyền bá giá trị chính trị, dẫn dắt xã hội theo mình theo một mục đích cải biến xã hội nhất định. Trong quá trình đó, Đảng chính trị nào nhờ sự ủng hộ của nhân dân hoặc chiếm được đa số phiếu ủng hộ của cử tri mà nắm được quyền hành pháp trong bộ máy nhà nước thì đảng đó được gọi là đảng cầm quyền, đảng nào không cầm quyền, hoặc không ở trong liên minh cầm quyền, thì gọi là đảng đối lập.
Từ khi thành lập Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa cho đến nay, nhờ các yếu tố khách quan và năng lực chủ quan, Đảng cộng sản Việt Nam, luôn luôn là đảng cầm quyền. Đặc biệt, trong hệ thống chính trị Việt Nam hiện nay, chỉ có một đảng chính trị, nên Đảng cộng sản Việt Nam vừa có vai trò lãnh đạo, vừa có vai trò cầm quyền. Đảng một lúc phải thực thi hai loại quyền lực, quyền lực chính trị (lãnh đạo) và quyền lực nhà nước (cầm quyền).
Nói về quyền lực lãnh đạo,
Quyền lực lãnh đạo, có thể không chính thức, chỉ được thừa nhận bởi nhân dân, như trong thời kỳ đấu tranh giành chính quyền; cũng có thể chính thức, được chế định trong Hiến pháp. Nhưng dù chính thức hay không, Đảng lãnh đạo, không có bộ máy cưỡng chế, giống như một nhà lãnh đạo bất kỳ nào khác, Đảng lãnh đạo bằng tính tiên phong, bằng sự hấp dẫn của lý tưởng và giá trị mà Đảng theo đuổi, thể hiện trong cương lĩnh, đường lối, chủ trương, bằng sự vận động, thuyết phục quần chúng nhân dân bằng những tấm gương chiến đấu hi sinh của Đảng, Đảng phải thể hiện là “đạo đức, là văn minh”, là “không có mục đích nào khác, ngoài lợi ích của Tổ quốc, của nhân dân”.
Vậy kiểm soát quyền lực lãnh đạo của Đảng bằng cách nào? Quyền lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam được chế định trong Hiến pháp “là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội.”
Chế định của Hiến pháp là căn cứ quan trọng nhất để kiểm soát quyền lực lãnh đạo của Đảng. Trước hết cần đánh giá hiệu quả lãnh đạo của Đảng. Hiệu quả lãnh đạo của Đảng dựa trên ba tiêu chí cơ bản: (i) Mục tiêu, nhiệm vụ mà Đảng đề ra (ii) Niềm tin của nhân dân đối với sự lãnh đạo của Đảng và (iii) Những giá trị mà Đảng mang đến cho cho nhân dân, cho đất nước, cho dân tộc.
Ngoài việc đánh giá hiệu quả lãnh đạo theo vai trò lãnh đạo được chế định bởi Hiến pháp, cũng có thể tiến hành thường xuyên giám sát hoạt động của Đảng theo các tiêu chí cụ thể hơn được ghi trong Cương Lĩnh và trong Điều 4 Hiến pháp 2013. Đó là, Thứ nhất: Đảng Cộng sản Việt Nam gắn bó mật thiết với Nhân dân, phục vụ Nhân dân. Thứ hai, Đảng chịu sự giám sát của Nhân dân. Thứ ba: Đảng chịu trách nhiệm trước Nhân dân về những quyết định của mình. Thứ tư: Các tổ chức của Đảng và đảng viên của hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật”.
Việc kiểm soát quyền lực lãnh đạo của Đảng còn được chế định trong Hiến pháp, các văn bản luật và Điều lệ Đảng, với các hình thức giám sát, phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc, của các tổ chức chính trị-xã hội và nhân dân…
Ngoài ra Đảng còn có cơ chế “tự kiểm soát” bằng các hình thức sinh hoạt đảng như “tự phê bình và phê bình”, hoạt động kiểm tra-giám sát của các tổ chức đảng từ chi bộ đến Trung ương.
Chế tài quan trọng nhất đối với kiểm soát quyền lãnh đạo của Đảng là lòng tin của nhân dân, của những người đi theo Đảng. Đối với một người lãnh đạo, không có trừng phạt gì lớn hơn, khi những người đi theo mất lòng tin vào những giá trị mà mình chiến đấu, hi sinh, tôn thờ; mất lòng tin vào sự dẫn dắt của mình. Mất lòng tin của nhân dân đối với Đảng sẽ dẫn đến mất vai trò lãnh đạo của Đảng, và sẽ mất quyền lãnh đạo, dù quyền đó có thể được chế định bằng những hình thức pháp lý.
Khi Đảng đã trở thành đảng cầm quyền, và thực sự Đảng ta là đảng cầm quyền từ năm 1945 đến nay, việc kiểm soát quyền lực của Đảng còn được thể hiện trong kiểm soát quyền lực Nhà nước.
Quyền lực nhà nước là quyền lực ủy quyền của Nhân dân
Đảng ta cũng như bất kỳ đảng chính trị nào khác không có bộ máy cưỡng chế để ép buộc nhân dân đi theo mình. “Đảng lãnh đạo bằng cương lĩnh, chiến lược, các định hướng về chính sách và chủ trương lớn; bằng công tác tuyên truyền, thuyết phục, vận động, tổ chức, kiểm tra, giám sát và bằng hành động gương mẫu của đảng viên. Đảng giới thiệu những đảng viên ưu tú có đủ năng lực và phẩm chất vào hoạt động trong các cơ quan lãnh đạo của hệ thống chính trị. Đảng lãnh đạo thông qua tổ chức đảng và đảng viên hoạt động trong các tổ chức của hệ thống chính trị”[3].
Các lãnh đạo đảng Cộng sản đã thừa nhận tham nhũng trở thành 'quốc nạn', sự tha hóa quyền lực nay đã lan rộng sang các lĩnh vực khác, đặc biệt là công tác cán bộ, từ tuyển dụng, bổ nhiệm gây ra tình trạng 'sếp nhiều như nhân viên' trong bộ máy, 'cả họ làm quan', 'lãnh đạo' là để làm 'kinh tế'… Điều đó làm suy giảm niềm tin trong dân chúng và đe dọa sự tồn vong của chế độ, vì vậy Đảng đang nỗ lực tìm kiếm phương cách kiểm soát quyền lực.
Luật về phòng, chống tham nhũng lần đầu được ban hành năm 2005, đã có dự kiến bổ sung, chỉnh sửa vào năm 2016, nhưng sẽ lùi vào năm 2017 vì tính phức tạp diễn biến thực trạng tham nhũng.
Đảng cũng đã thành lập Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng - cơ quan phòng chống tham nhũng tối cao của nước Việt Nam năm 2013 theo Quyết định số 162-QĐ/TW của Bộ Chính trị. Tổng Bí thư Đảng làm trưởng ban chỉ đạo. Được biết trước đó Ban này do Thủ tướng chính phủ nắm, nhưng do những lý do khác nhau, trong đó đề cập tới tính hiệu quả cũng như lường tình trạng 'vừa đá bong vừa thổi còi' có thể xảy ra…
Cơ chế làm việc là Đảng lãnh đạo trực tiếp Ban này, chẳng hạn như Chỉ thị 50-CT/TW của Bộ Chính trị về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác phát hiện, xử lý vụ việc, vụ án tham nhũng. Ban này chỉ đạo các vụ đại án phức tạp, ngoài bộ phận thường trực, Ban này họp theo phiên.
Theo thông báo của cuộc họp phiên thứ 11, trong năm 2016, các vụ án thuộc diện Ban Chỉ đạo theo dõi, chỉ đạo đã truy tố, xét xử sơ thẩm 08 vụ/121 bị cáo; xét xử phúc thẩm 06 vụ/55 bị cáo. Các vụ án thuộc diện Ban Nội chính Trung ương theo dõi, đôn đốc đã truy tố, xét xử sơ thẩm 03 vụ/10 bị cáo; xét xử phúc thẩm 02 vụ/03 bị cáo. Ngoài ra, Ban cũng chỉ đạo xử lý 87 vụ việc, vụ án tại các địa phương, kiến nghị 42 vấn đề về cơ chế, chính sách, pháp luật có liên quan.
Đảng Cộng sản thật khó kiểm soát tha hóa quyền lực, khi những sai phạm trở thành 'lỗi hệ thống'.
Năm 2017 Ban Chỉ đạo được yêu cầu đẩy nhanh tiến độ điều tra, truy tố, xét xử các vụ án đặc biệt nghiêm trọng, phức tạp, dư luận đặc biệt quan tâm, trước hết là vụ Hà Văn Thắm, giai đoạn II của các vụ án Phạm Công Danh, Huỳnh Thị Huyền Như, Vũ Quốc Hảo… và các vụ án Trịnh Xuân Thanh, chủ tịch Tổng công ty cổ phần xây lắp dầu khí Việt Nam (PVC)…
Để đảm đương được vai trò lãnh đạo, Đảng phải vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức; thường xuyên tự đổi mới, tự chỉnh đốn, ra sức nâng cao trình độ trí tuệ, bản lĩnh chính trị, phẩm chất đạo đức và năng lực lãnh đạo. Giữ vững truyền thống đoàn kết thống nhất trong Đảng, tăng cường dân chủ và kỷ luật trong hoạt động của Đảng. Thường xuyên tự phê bình và phê bình, đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân, chủ nghĩa cơ hội, tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí và mọi hành động chia rẽ, bè phái. Đảng chăm lo xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên trong sạch, có phẩm chất, năng lực, có sức chiến đấu cao theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh; quan tâm bồi dưỡng, đào tạo lớp người kế tục sự nghiệp cách mạng của Đảng và dân tộc.
Trong cơ chế này có nhiều loại quyền lực: Quyền lực của Đảng là quyền lực chính trị, quyền lực của Nhà nước vừa là quyền lực công cộng của toàn xã hội vừa là quyền lực chính trị được tổ chức lại (hay tập trung lại), Nhân dân có nhiều loại quyền lực, nhưng trong cơ chế này chỉ xem xét quyền lực chính trị và quyền lực nhà nước của nhân dân mà thôi.
Một cơ chế kiểm soát qyền lực phổ biến và nổi tiếng do Montesquieu đề xuất đó là tam quyền phân lập. Chúng ta chưa nói đến vấn đề chính trị của cơ chế này, hãy tìm hiểu lý do kỹ thuật của nó. Montesquieu nói rằng: “Tự do chính trị của công dân là sự yên tâm vì mỗi người nghĩ rằng mình được an ninh”. Muốn được như vậy “thì chính phủ phải làm thế nào để một công dân này không phải sợ một công dân khác” (Mon.llcc.2006.106). “Khi mà quyền lập pháp và quyền hành pháp nhập lại trong tay một người hay một viện nguyên lão thì sẽ không còn gì là tự do nữa, vì người ta sợ rằng, chính ông ta hay viện ấy chỉ đặt ra luật độc tài để thi hành một cách độc tài” (M.106). “Nếu quyền tư pháp nhập lại với quyền lập pháp thì người ta sẽ độc đoán với quyền sống và quyền tự do của công dân, quan tòa sẽ là người đặt ra luật. Nếu quyền tư pháp nhập lại với quyền hành pháp thì ông quan tòa sẽ có cả sức mạnh của kẻ đàn áp” (M.đ dẫn. tr.106) “Nếu một người, hay một tổ chức của quan chức, hoặc quý tộc, hoặc của dân chúng nắm luôn cả ba quyền nói trên thì tất cả sẽ mất hết”[4]
Công dân không thể tự mình thực hiện quyền lực nhà nước, cho nên họ thực hiện quyền lập pháp bằng cách giao quyền cho các đại biểu của mình.
Trong cuốn Bàn về khế ước xã hội. Rousseau viết rằng thực chất của khế ước xã hội là “Mỗi người chúng ta đặt mình và quyền lực của mình dưới sự điều khiển tối cao của ý chí chung, và chúng ta tiếp nhận mọi thành viên như một bộ phận không thể tách rời của cái toàn thể” (Bàn về khế ước xã hội, Nxb. LLCT, H, 2006, tr.68)
Nói về “ý chí chung có thể nhầm lẫn” hay tình trạng “khi một nhóm nào to phình lên trùm lợp tất cả các nhóm khác, ta sẽ không có được tổng số của nhiều sự khác biệt nhỏ, mà chỉ có một sự khác biệt duy nhất, lúc đó sẽ không còn ý chí chung nữa, và ý kiến quyết định chỉ là ý chí riêng” (R.đ d. t.85)
“Dân chúng tuân theo luật phải là người làm ra luật” (R.đ.d, tr.97)
“Người lập pháp quyết không phải là một pháp quan hay một quốc vương”, “ai đã truyền lệnh cho người thì không truyền lệnh cho pháp luật. Và kẻ đã truyền lệnh cho pháp luật cũng không nên truyền lệnh cho người. Không như thế thì luật pháp vốn là công cụ chế ngự tham vọng sẽ trở thành công cụ để duy trì bất công” (R. đ,d, tr. 101)
“Vậy người chấp pháp không nên có quyền lập pháp và dân chúng dầu muốn cũng không thể trao quyền lập pháp cho người chấp pháp. Vì theo như Công ước cơ bản thì chỉ có ý chí chung buộc các cá nhân phải theo nó. Người ta không bao giờ chắc chắn rằng, ý chí cá nhân tự nó phù hợp với ý chí chung” (R.đ.d, tr.102)
Tư do “Vì cá nhân bị mất tự do bao nhiêu thì cơ thể quốc gia giảm sút sức lực bấy nhiêu”
Bình đẳng. “Vì không có bình đẳng, thi không thể nào có tự do được” (R,đ.d,tr.115)
“Quan lại càng đông, chính phủ càng yếu” (R, tr.129)
Nếu gắn liền quyền hành pháp với quyền lập pháp “người cầm đầu chính phủ với cơ quan quyền lực tối cao sẽ chỉ là một người, sẽ thành một chính phủ không có chính phủ”. “Người làm ra luật lại đứng ra thi hành luật thì không tốt”. “Lúc đó quốc gia sẽ bị biến chất, mọi thứ cải cách đều không thể thực hiện” (R.đ.d, tr.135)
Để cho cơ quan quyền lực tối cao (như Quốc hội Việt Nam chẳng hạn) “Nếu như cơ quan quyền lực tối cao (tức lập pháp) có thể nắm cả quyền hành pháp, thì luật và hoạt động thực tế sẽ trùng hợp nhau đến mực không phân biệt được nữa và cơ thể chính trị sẽ biến chất, chẳng bao lâu sẽ làm mồi cho bạo lực chống lại bản thân nó” (R.LLCT,đ.d, tr.183)
“Các thứ chính phủ trên đời, một khi nắm được quyền lực công cộng, đều tìm cách lạm dụng, thoán đoạt quyền lực tối cao của nhân dân” (R,đ.d, tr.188). Ta phải nói điều này vì, thứ nhất người Việt Nam ta không phải là thiên thần, và tất cả những người có vị trí quyền lực đều có thể làm như thế. Thứ trong một nước dù dân chủ nếu không có có “đức hạnh” thì quyền lực sẽ bị tha hóa. Mà đức hạnh thì chúng ta hiện nay ở chặng nào? Đảng đã làm nhiều biện pháp nhưng tham nhũng vẫn không được đẩy lùi, còn có biểu hiện tinh vi hơn, tình trạng chạy chức, chạy quyền, chạy biên chế, chạy bằng cấp, chạy giải thưởng…đã trở thành phổ biến.
Nói về dư luận, Rousseau viết: “Tất cả mọi dân tộc trên đời này đều có dư luận để quyết định chọn lấy cái mà họ ưa thích. Nếu dựng lại được công luận dân chúng thì phong tục tự nó được chắt lọc và trong sáng lên” (R.đ.d. tr.226).
“Ai phán đoán được công luận thì phán đoán được danh dự. Ai phán đoán được danh dự thì người ấy nắm được quy luật cuẩ dư luận dân chúng” (R, đ.d,2006,H, tr.227) “Mỗi khi luật đã mất thiêng thì mọi cái đều hết hi vong” (Rđ.d, tr.227)
Nói về nguyên tắc của nhà nước dân chủ, Montesquieu cho rằng: “Trong một nhà nước quân chủ hay một nhà nước chuyên chế, không càn phải có đạo đức nó cũng cứ tồn tại. Luật của vua và cánh tay chuyên chế là đủ để duy trì tất cả. Nhưng trong nhà nước dân chủ thì phải có thêm một điều, đó là đức hạnh (Bàn về tinh thần pháp luật, Nxb.LLCT, H, 2006, tr.55). Ông còn nói: “Khi đạo đức của nền dân chủ đã mất”, thì tính tham lam lọt vào các trái tim, cái hư hỏng lồng vào tất cả mọi ngóc ngách của xã hội, các ước vọng bị đổi mục tiêu, cái vốn người ta yêu giờ không yêu nữa, kho tàng chung bị coi như sở hữu tư nhân, nước cộng hòa chỉ là cái túi cho người ta bòn rút, và sức mạnh quốc gia chỉ còn là quyền lực của một vài công dân (…) (Đã dẫn tr.56
Bản chất của kiểm soát quyền lực nhà nước là để các cơ quan nhà nước, các viên chức nhà nước thự thi quyền lực đúng mục đích và hiệu quả,
Kể từ đó đến nay, sự vận hành của cơ chế Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ ngày càng được cụ thể hóa và hoạt động hiệu quả, thể hiện rõ tính ưu việt mối quan hệ Đảng-Nhà nước-Nhân dân trong chế độ xã hội chủ nghĩa (XHCN) ở Việt Nam. Kế thừa kinh nghiệm và kết quả 30 năm thực hiện đường lối đổi mới; trước yêu cầu nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, Văn kiện và Nghị quyết Đại hội XII của Đảng khẳng định: Tiếp tục thể chế hóa, cụ thể hóa mối quan hệ Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ, nhất là nội dung “nhân dân làm chủ” và phương châm "Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, giám sát"; coi đó là một trong những phương thức hữu hiệu để đưa Nghị quyết Đại hội XII của Đảng vào cuộc sống.
Trước hết, về Đảng lãnh đạo: Nhất quán với quan điểm, chủ trương, đường lối mà Đảng ta đã nêu ra qua các kỳ đại hội, tại Đại hội XII, Đảng ta tiếp tục khẳng định: Đảng lãnh đạo là yếu tố tiên quyết bảo đảm sự vận hành của cơ chế, làm cho cơ chế Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ đạt hiệu quả, thực sự đi vào cuộc sống. Sự khẳng định vai trò lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước, xã hội và cách mạng Việt Nam là vấn đề có tính nguyên tắc. Đây là quy luật khách quan, không tự nhiên mà có và không phải cứ tự nhận mà được. Bởi lẽ, sự lãnh đạo của Đảng đối với cách mạng Việt Nam đã được nhân dân thừa nhận từ sự kiểm nghiệm của thực tiễn lịch sử đấu tranh giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước; tiến hành công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; đem lại hòa bình, độc lập, tự do, ấm no, hạnh phúc cho nhân dân.
Để Đảng ta hoàn thành sứ mệnh lãnh đạo Nhà nước và xã hội, đáp ứng sự kỳ vọng, mong muốn của nhân dân, Đảng phải “đoàn kết, đổi mới, dân chủ, trí tuệ, kỷ cương”, có đường lối lãnh đạo đúng đắn và sáng suốt; có biện pháp nhân lên sức mạnh nội sinh, phát huy cao nhất sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc và thời đại; tạo mọi điều kiện thuận lợi để nhân dân làm chủ xã hội và phát huy tốt vai trò quản lý của Nhà nước ngay từng địa phương, cơ sở. Cùng với đó, Đảng phải đẩy mạnh đấu tranh phòng, chống nguy cơ thoái hóa, biến chất, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ; chủ động, tích cực đấu tranh phòng, chống chiến lược “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch. Không để đất nước bị động, bất ngờ. Điều đó chỉ có thể thực hiện tốt khi cơ chế vận hành: Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ được tiếp tục phát huy cao nhất; trong đó, Đảng phải thật sự là nhân tố lãnh đạo có trí tuệ, là đạo đức, là văn minh. Đại hội XII của Đảng nêu rõ nhiệm vụ và giải pháp trên 15 vấn đề lớn, trong đó “đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng” được xác định là: “Tiếp tục cụ thể hóa phương thức lãnh đạo của Đảng đã được xác định trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) ở tất cả các cấp bằng những quy chế, quy định, quy trình cụ thể. Quy định rõ hơn Đảng phục vụ nhân dân, chịu sự giám sát của nhân dân về những quyết định của mình”.
Thứ hai, về Nhà nước quản lý: Đây là yếu tố quyết định trực tiếp sự thành công, tính hiệu quả trong vận hành cơ chế. Đại hội XII chỉ rõ: Nhà nước ta là Nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Vì vậy, xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN ở Việt Nam; một mặt, Đảng đề cao vị trí, vai trò tối thượng của Hiến pháp, pháp luật đối với mọi mặt của đời sống xã hội. Mặt khác, khẳng định vai trò lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước và xã hội thông qua cương lĩnh, chủ trương, đường lối của Đảng, bởi nó được thể chế hóa qua hoạt động của Nhà nước; đặc biệt là thông qua công tác tổ chức cán bộ, Đảng thống nhất lãnh đạo, quản lý công tác này của cả hệ thống chính trị, trong đó chú trọng đào tạo, bồi dưỡng và sử dụng đội ngũ cán bộ công chức, viên chức và làm cho bộ máy Nhà nước hoạt động có hiệu quả nhất. Điều đó là hoàn toàn phù hợp với điều kiện nước ta, được khẳng định trong Điều lệ Đảng và hiến định trong Hiến pháp năm 2013. Bởi lẽ, Đảng ta là đảng cầm quyền, là hạt nhân lãnh đạo của hệ thống chính trị. Khâu then chốt có ý nghĩa quyết định làm cho cơ chế Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ vận hành thông suốt, có hiệu quả là Đảng phải thật sự trong sạch, vững mạnh về chính trị tư tưởng, tổ chức và đạo đức, gắn bó máu thịt với nhân dân vì nhân dân là yếu tố trung tâm của mọi quyền lực, là cội nguồn sức mạnh, bí quyết của mọi thành công. Vì vậy, mọi biểu hiện xa dân, coi thường dân, ức hiếp dân, gây phiền phức cho dân... đều làm cho Đảng tự suy yếu, lỏng lẻo, cơ chế Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ bị phá vỡ.
Chúng ta ý thức sâu sắc rằng, Nhà nước mạnh thì Đảng cầm quyền mới mạnh; Nhà nước vững mạnh thì quyền làm chủ của nhân dân mới được bảo đảm và phát huy cao nhất. Nhà nước và hoạt động của Nhà nước từ Trung ương đến cơ sở ngày càng nhận được sự ủng hộ của mọi tầng lớp nhân dân thì hiệu quả hoạt động của Nhà nước ngày càng cao, xã hội càng dân chủ; mục tiêu, lý tưởng của Đảng mới được thực hiện. Vì vậy, để tiếp tục hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân, Văn kiện Đại hội XII của Đảng khẳng định: “Thực hiện thí điểm dân trực tiếp bầu một số chức danh ở cơ sở và ở cấp huyện”. Đây là một trong những giải pháp nhằm thực hiện quyền làm chủ trực tiếp của nhân dân ngay từ địa phương.
Thứ ba, về nhân dân làm chủ: Đây là yếu tố trung tâm của cơ chế Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ. Tầm quan trọng đặc biệt của yếu tố này biểu hiện ở chỗ: Quyền lực của Đảng và Nhà nước đều từ quyền lực của nhân dân. Trong lịch sử Việt Nam, ông cha ta luôn đề cao và đặt lên hàng đầu vai trò của nhân dân trong cấu tạo quyền lực nhà nước và quyền lực xã hội. Đảng ta ra đời, tồn tại, phát triển không vì mục đích tự thân mà vì hạnh phúc của nhân dân. Điều này được thể hiện nhất quán hơn 86 năm lãnh đạo cách mạng Việt Nam, từ quan điểm lý luận đến thực tiễn cuộc sống. Vì vậy, Đại hội XII của Đảng tiếp tục khẳng định: Đảng Cộng sản Việt Nam là đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam; đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của dân tộc. Mục đích duy nhất của Đảng ta là đấu tranh giành độc lập dân tộc, thống nhất Tổ quốc, xây dựng đất nước giàu mạnh, phồn vinh, đồng bào được sống trong tự do, ấm no, hạnh phúc. Nhờ vậy, Đảng và Nhà nước ta luôn phát huy được sức mạnh của nhân dân để tiến hành đấu tranh giành và giữ vững độc lập, tự do và tiến hành thắng lợi công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Tuy nhiên, trong thực tế, có lúc, có nơi vai trò làm chủ của nhân dân vẫn còn mờ nhạt. Ở một số nơi, quyền làm chủ của nhân dân vẫn bị vi phạm... Văn kiện Đại hội XII chỉ rõ: “Sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc chưa được phát huy đầy đủ, có lúc, có nơi chưa phát huy được vai trò, sức mạnh của nhân dân” và “Quyền làm chủ của nhân dân ở nhiều nơi, nhiều lĩnh vực còn bị vi phạm. Có lúc, có nơi, việc thực hiện dân chủ còn hạn chế, hoặc mang tính hình thức”. Đây chính là vấn đề mà Đảng và Nhà nước ta cần phải nghiên cứu, giải quyết, nhằm phát huy tốt hơn nữa vai trò làm chủ của nhân dân trong thời kỳ mới.
Để tiếp tục vận hành cơ chế Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ trong tình hình mới hiệu quả hơn, Đại hội XII của Đảng chỉ rõ cần tập trung thực hiện tốt những vấn đề cơ bản sau đây:
Một là, đẩy mạnh việc thể chế hóa bằng pháp luật và sớm đưa vào đời sống mọi chủ trương, đường lối của Đảng, nhất là Văn kiện Đại hội XII. Hiến pháp năm 2013 xác định: Đảng là thành viên và đồng thời là hạt nhân của hệ thống chính trị, Đảng lãnh đạo Nhà nước và toàn xã hội; Đảng hoạt động trong khuôn khổ của Hiến pháp và pháp luật... Vì vậy, trong các văn bản quy phạm pháp luật, cần quy định rõ, cụ thể chức năng, nhiệm vụ của Đảng cầm quyền phù hợp với Hiến pháp và pháp luật. Cán bộ đảng viên phải thực hiện nghiêm Hiến pháp và pháp luật. Đây là những quy định bảo đảm cho Đảng luôn là một tổ chức chặt chẽ, giữ vững vai trò lãnh đạo, không lạm quyền, bao biện, làm thay chức năng, nhiệm vụ của Nhà nước, của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị-xã hội khác.
Hai là, tạo mọi điều kiện thuận lợi để nhân dân trực tiếp thể hiện, thực hiện quyền làm chủ trong hoạt động của Đảng, Nhà nước và hoạt động xã hội. Đại hội XII của Đảng khẳng định chúng ta xây dựng một xã hội do nhân dân làm chủ, quyền lực và hạnh phúc thuộc về nhân dân. Vì vậy, Đảng, Nhà nước cần tạo ra nhiều “kênh” để nhân dân thực hiện quyền làm chủ trực tiếp của mình, cần tổ chức nhiều đợt lấy ý kiến của nhân dân; phát huy quyền làm chủ về chính trị của mình đối với các vấn đề trọng đại của đất nước. Thực hiện tốt phương châm: Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, giám sát và quản lý mọi hoạt động của xã hội, của Đảng, Nhà nước theo Hiến pháp và pháp luật.
Ba là, tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng, đúng tinh thần Đại hội XII của Đảng. Cần tuyên truyền, giáo dục cho mọi người dân thực hiện: “Sống và làm việc theo Hiến pháp và pháp luật”, mọi người dân, bất kể là ai đều phải tuân thủ Hiến pháp và pháp luật; Nhà nước phải chịu sự lãnh đạo của Đảng và sự lãnh đạo ấy phải được thể chế bằng luật định; phải có quy định rõ ràng để bảo đảm tất cả mọi quyền lực đều thuộc về nhân dân; nhân dân có quyền kiểm soát Nhà nước, có quyền bãi miễn những đại biểu do mình bầu ra, nếu đại biểu đó mất tư cách và không làm tròn nhiệm vụ. Nhà nước tôn trọng và khuyến khích sự hoạt động của các tổ chức chính trị-xã hội theo đúng luật định. Đây chính là sự biểu hiện rõ nhất vai trò: “Nhà nước của dân, do dân, vì dân”; đồng thời, cũng là điểm biểu hiện rõ tư cách “nhân dân làm chủ” xã hội.
Đại hội XII của Đảng tiếp tục khẳng định cơ chế Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Nhân dân làm chủ không chỉ thể hiện sự nhất quán về quan điểm, đường lối, phương thức lãnh đạo của Đảng, mà còn khẳng định cơ chế này là bảo đảm chắc chắn nhất cho sự thành công của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Một trong những “chìa khóa” để thực hiện thành công cơ chế đó, như Văn kiện Đại hội XII khẳng định: “Đoàn kết trong Đảng là hạt nhân, là cơ sở vững chắc để xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc”; “Nhà nước bảo đảm và phát huy quyền làm chủ của nhân dân; công nhận, tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm quyền con người, quyền công dân”.
Từ "cơ chế" là chuyển ngữ của từ mécanisme của phương Tây. Từ điển Le Petit Larousse (1999) giảng nghĩa "mécanisme" là "cách thức hoạt động của một tập hợp các yếu tố phụ thuộc vào nhau". Còn Từ điển Tiếng Việt (Viện Ngôn ngữ học 1996) giảng nghĩa cơ chế là "cách thức theo đó một quá trình thực hiện".
Từ "cơ chế" được dùng rộng rãi trong lĩnh vực quản lý từ khoảng cuối những năm 1970, khi chúng ta bắt đầu chú ý nghiên cứu về quản lý và cải tiến quản lý kinh tế, với nghĩa như là những qui định về quản lý. Cách hiểu đơn giản này dẫn tới cách hiểu tách rời cơ chế với con người như nêu trên.
CƠ CHẾ TRÊN LÀ MỘT CƠ CHẾ THỰC THI QUYỀN LỰC
Định nghĩa, nội dung, đặc điểm, phương thức kiểm soát
Bất kỳ một tổ chức nào muốn vận hành được đều phải có ba bộ phận chức năng: Ra quyết định, thực thi quyết định và bảo vệ quá trình thực thi bằng việc xử phát những ai vi phạm quyết định. Ba bộ phận đó được trao quyền và nguồn lực gọi là quyền lực. Có lúc chỉ nằm trong một người (độc tài), trong một tổ chức (độc quyền), trong ba tổ chức độc lập với nhau (dân chủ). Nếu như ba cơ quan đó được tổ chức độc lập thì, ba cơ quan quyền lực đó phải vừa thống nhất phối hợp với nhau, thực hiện mục tiêu chung của tổ chức, vừa phải chế ước, kiểm soát lẫn nhau, để tránh cho bất kỳ một cơ quan nào có thể lạm quyền. Lạm quyền bằng cách ra quyết định sai, bằng cách thực thi sai, bằng cách xét xử sai. Trong Đảng các quyền lực đó là Đại hội, Ban chấp hành TƯ và Ủy ban Kiểm tra giám sát của Đảng. Trong Nhà nước ba cơ quan đó được tổ chức thành Quốc hội, Chính phủ và Tòa án. Còn nhân dân, phần quyền lực chính trị và quyền lực nhà nước trao cho tổ chức đại diện chính trị của mình (Đảng chính trị) và các cơ quan nhà nước. Phần lớn quyền lực của nhân dân, được nhân dân sử dụng, làm những việc gì mà luật không cấm. Điều luật cao nhất, cơ bản nhất là Hiến pháp, được coi là “Khế ước” giữa Nhà nước và nhân dân; các điều luật còn lại phải tuân thủ “Khế ước”, phải phản ánh ý chí của nhân dân, và ý chí các cơ quan nhà nước. Nhưng không được vượt qua “Khế ước” (Hiến pháp). Như vậy, Hiến pháp thỏa thuận và chế định trên cơ sở tự nguyện mối quan hệ giữa ba chủ thể quyền lực trong xã hội: Đảng, (chủ thể thực thi quyền lực chính trị), Nhà nước (chủ thể thực thi quyền lực nhà nước), nhân dân (chủ thể gốc của mọi quyền lực). Ba loại quyền lực này phải thống nhất phối hợp hành động thực hiện Hiến pháp, đồng thời phải kiểm soát lẫn nhau, giám sát nhau để không ai có thể lạm quyền, lộng quyền. Ở nước ta các mối quan hệ cơ bản đó được Đảng ta khái quát thành một cơ chế chung gọi là Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ.
Cơ chế thực thi quyền lực ở nước ta phải được thể hiện bằng hiến pháp. Đó là yếu tố đầu tiên của kiểm soát quyền lực.
Hiến pháp 2013 của nước ta chế định rõ:
Đảng Cộng sản Việt Nam là Đảng cầm quyền, lãnh đạo Nhà nước và xã hội. Đảng lãnh đạo bằng cương lĩnh, chiến lược, các định hướng về chính sách và chủ trương lớn; bằng công tác tuyên truyền, thuyết phục, vận động, tổ chức, kiểm tra, giám sát và bằng hành động gương mẫu của đảng viên. Đảng thống nhất lãnh đạo công tác cán bộ và quản lý đội ngũ cán bộ, giới thiệu những đảng viên ưu tú có đủ năng lực và phẩm chất vào hoạt động trong các cơ quan lãnh đạo của hệ thống chính trị. Đảng lãnh đạo thông qua tổ chức đảng và đảng viên hoạt động trong các tổ chức của hệ thống chính trị, tăng cường chế độ trách nhiệm cá nhân, nhất là người đứng đầu. Đảng thường xuyên nâng cao năng lực cầm quyền và hiệu quả lãnh đạo, đồng thời phát huy mạnh mẽ vai trò, tính chủ động, sáng tạo và trách nhiệm của các tổ chức khác trong hệ thống chính trị.
Đảng lãnh đạo hệ thống chính trị, đồng thời là bộ phận của hệ thống ấy. Đảng gắn bó mật thiết với nhân dân, tôn trọng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân, dựa vào nhân dân để xây dựng Đảng, chịu sự giám sát của nhân dân, hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật.
Để đảm đương được vai trò lãnh đạo, Đảng phải vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức; thường xuyên tự đổi mới, tự chỉnh đốn, ra sức nâng cao trình độ trí tuệ, bản lĩnh chính trị, phẩm chất đạo đức và năng lực lãnh đạo. Giữ vững truyền thống đoàn kết thống nhất trong Đảng, tăng cường dân chủ và kỷ luật trong hoạt động của Đảng. Thường xuyên tự phê bình và phê bình, đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân, chủ nghĩa cơ hội, tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí và mọi hành động chia rẽ, bè phái. Đảng chăm lo xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên trong sạch, có phẩm chất, năng lực, có sức chiến đấu cao theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh; quan tâm bồi dưỡng, đào tạo lớp người kế tục sự nghiệp cách mạng của Đảng và dân tộc.
Về Nhà nước
Điều 2
Điều 3
Nhà nước bảo đảm và phát huy quyền làm chủ của Nhân dân; công nhận, tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm quyền con người, quyền công dân; thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, mọi người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện.
QUỐC HỘI
Điều 69
Quốc hội là cơ quan đại biểu cao nhất của Nhân dân, cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Quốc hội thực hiện quyền lập hiến, quyền lập pháp, quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước và giám sát tối cao đối với hoạt động của Nhà nước.
Điều 70
Quốc hội có những nhiệm vụ và quyền hạn sau đây:
Sau khi được bầu, Chủ tịch nước, Chủ tịch Quốc hội, Thủ tướng Chính phủ, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao phải tuyên thệ trung thành với Tổ quốc, Nhân dân và Hiến pháp;
CHÍNH PHỦ
Điều 94
Chính phủ là cơ quan hành chính nhà nước cao nhất của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thực hiện quyền hành pháp, là cơ quan chấp hành của Quốc hội.
Chính phủ chịu trách nhiệm trước Quốc hội và báo cáo công tác trước Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội, Chủ tịch nước.
Chính phủ có những nhiệm vụ và quyền hạn sau đây:
TÒA ÁN NHÂN DÂN, VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN
Điều 102
c chính trị - xã hội trong việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình.
Nhân dân
Điều 6
Nhân dân thực hiện quyền lực nhà nước bằng dân chủ trực tiếp, bằng dân chủ đại diện thông qua Quốc hội, Hội đồng nhân dân và thông qua các cơ quan khác của Nhà nước.
Mặt trận
Điều 9
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là cơ sở chính trị của chính quyền nhân dân; đại diện, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của Nhân dân; tập hợp, phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, thực hiện dân chủ, tăng cường đồng thuận xã hội; giám sát, phản biện xã hội; tham gia xây dựng Đảng, Nhà nước, hoạt động đối ngoại nhân dân góp phần xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Định nghĩa, nội dung, đặc điểm, phương thức kiểm soát
Định nghĩa, nội dung, đặc điểm, phương thức kiểm soát
Hiệu quả của cơ chế là tổng thể các mối quan hệ, các nguyên tắc, phương thức hoạt động mang đến kết quả mong muốn, với chi phí ít nhất.
Sáng rõ cơ chế “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Nhân dân làm chủ” theo tinh thần Đại hội XII của Đảng
10 Tháng Năm, 2016 Hoàng Hà 2 Comments Văn kiện Đại hội XII
Điểm mới của Đại hội XII khi bàn về cơ chế “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ” được tập trung vào một số nội dung, phương hướng, nhiệm vụ và giải pháp để phát huy chức năng, hiệu quả của từng thành tố trong cơ chế, đó là:
Đối với Đảng, kế thừa những nhiệm vụ, giải pháp của Đại hội XI, Đại hội XII đã nêu nhiệm vụ, giải pháp trên 10 vấn đề, trong đó vấn đề “đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng” đã xác định nhiệm vụ, giải pháp mới là: “Tiếp tục cụ thể hoá phương thức lãnh đạo của Đảng đã được xác định trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) ở tất cả các cấp bằng những quy chế, quy định, quy trình cụ thể. Quy định rõ hơn Đảng phục vụ nhân dân, chịu sự giám sát của nhân dân về những quyết định của mình”.
Đối với Nhà nước, để tiếp tục hoàn thiện nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, của dân, do dân và vì dân, Văn kiện Đại hội XII đưa ra một giải pháp mới: “Thực hiện thí điểm dân trực tiếp bầu một số chức danh ở cơ sở và ở cấp huyện”. Đây là giải pháp nhằm thực hiện quyền làm chủ trực tiếp của nhân dân.
Đối với nhân dân, nhằm phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm thực hiện quyền làm chủ của nhân dân, Văn kiện Đại hội XII đã bổ sung giải pháp mới là: “Dân chủ phải được thực hiện đầy đủ, nghiêm túc trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội”.
Đây là những điểm mới, những sự bổ sung, phát triển kịp thời, phản ánh một cách khách quan, toàn diện những đòi hỏi bức thiết của thực tiễn và thể hiện tầm nhìn, tư duy sáng tạo của Đảng trong lãnh đạo, phát huy mọi nhân tố, tiềm lực tạo ra động lực to lớn để phát triển đất nước trong tình hình mới.
Để góp phần thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội XII, tiếp tục thể chế hoá, cụ thể hoá mối quan hệ “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ”, trước hết cần tiếp tục làm sáng rõ cơ chế:
Đảng lãnh đạo: khẳng định vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam trong toàn bộ tiến trình cách mạng Việt Nam. Đảng lãnh đạo bằng cương lĩnh, chiến lược, các định hướng về chính sách và chủ trương lớn; bằng công tác tuyên truyền, thuyết phục, vận động, tổ chức, kiểm tra, giám sát và bằng hành động gương mẫu của đảng viên; đặc biệt, “phương thức lãnh đạo của Đảng phải chủ yếu bằng Nhà nước và thông qua Nhà nước” để cùng Nhà nước và toàn dân thực hiện mục tiêu của Đảng.
Nhà nước quản lý: là đề cập đến chức năng quản lý xã hội của bộ máy quyền lực – Nhà nước. Nội dung quản lý bao gồm: xây dựng kế hoạch, sắp xếp tổ chức, chỉ đạo điều hành và kiểm soát tiến trình hoạt động…dưới sự lãnh đạo của Đảng. Để có thể thực hiện chức năng quản lý của mình, Nhà nước phải được tổ chức thành các cơ quan lập pháp, hành pháp và tư pháp để bảo đảm quyền lực được phân công và phối hợp thực hiện có hiệu quả.
Nhân dân làm chủ: là đề cập đến quyền lực của nhân dân. Quyền lực thuộc về nhân dân thể hiện tính ưu việt của chế độ xã hội chủ nghĩa. Tầm quan trọng đặc biệt của yếu tố này biểu hiện ở chỗ: quyền lực của Đảng và Nhà nước đều từ quyền lực của nhân dân. Mọi mục tiêu, quan điểm, đường lối của Đảng, mọi cơ chế, chính sách của Nhà nước đều phải xuất phát từ nhân dân và vì lợi ích của nhân dân. Nhân dân thực hiện quyền làm chủ của mình không chỉ thông qua bộ máy nhà nước, mà họ còn tự mình thực hiện quyền ấy. Đại hội XI của Đảng khẳng định: “Nhân dân thực hiện quyền làm chủ thông qua hoạt động của Nhà nước, của cả hệ thống chính trị và các hình thức dân chủ trực tiếp, dân chủ đại diện”. Những chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước có quan hệ trực tiếp đến đời sống của quần chúng nhân dân đều là nội dung mà người dân cần biết, cần bàn, cần thực hiện và cần kiểm tra, giám sát việc thực hiện, đặc biệt, trong công tác xây dựng, thực thi Hiến pháp và pháp luật.
Cùng với sự nhận thức sáng rõ, để cơ chế được cụ thể hoá, vận hành đồng bộ, hiệu quả, phát huy vai trò của từng thành tố, đặc biệt là phát huy quyền làm chủ của nhân dân, khơi dậy động lực phát triển đất nước, cần thực hiện một số vấn đề sau:
Một là, phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm tất cả quyền lực thuộc về nhân dân.
Dân chủ xã hội chủ nghĩa là bản chất của chế độ ta, vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển đất nước. Do vậy, mọi đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước phải bảo đảm “do nhân dân làm chủ”, đều gắn với lợi ích chính đáng của nhân dân.
Hai là, tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa thực sự của dân, do dân, vì dân.
Tiếp tục đổi mới tổ chức, hoạt động của bộ máy nhà nước theo hướng gọn nhẹ, trong sạch, vững mạnh, có năng lực. Trước hết cần đổi mới tổ chức hoạt động của Quốc hội, bảo đảm cho Quốc hội thực sự là cơ quan quyền lực và là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân. Đổi mới tổ chức, hoạt động của Chính phủ và các bộ, ngành theo nguyên tắc tập trung dân chủ, có sự phân công, phân cấp, bảo đảm năng lực quản lý, điều hành xã hội bằng pháp luật và không ngừng tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa. Nhà nước phục vụ nhân dân, gắn bó mật thiết với nhân dân, thực hiện đầy đủ quyền dân chủ của nhân dân, tôn trọng, lắng nghe ý kiến của nhân dân và chịu sự giám sát của nhân dân; có cơ chế và biện pháp kiểm soát, ngăn ngừa và trừng trị tệ quan liêu, tham nhũng, xa dân, cửa quyền, hách dịch dân.
Tích cực phòng ngừa và kiên quyết đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí, thực hành tiết kiệm. Bảo đảm chi tiêu công hợp lý, tránh thất thoát. Kiên quyết xử lý các vụ án tham nhũng làm cho nhân dân tin tưởng vào hệ thống pháp luật và bộ máy nhà nước. Đặc biệt, phát huy vai trò của nhân dân trong phát hiện, tố cáo và giám sát xử lý các vụ án tham nhũng.
Ba là, tiếp tục xây dựng, chỉnh đốn Đảng, đổi mới, nâng cao chất lượng công tác dân vận của Đảng trong tình hình mới.
Trước hết, đẩy mạnh công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng, thực sự trong sạch vững mạnh; nâng cao trình độ, trí tuệ, năng lực lãnh đạo, năng lực cầm quyền của Đảng, bảo đảm Đảng thực sự là đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam.
Đảng cần phải làm tốt công tác quản lý tổ chức đảng và đảng viên; mọi đảng viên, bất kể giữ chức vụ, cương vị gì trong bộ máy của hệ thống chính trị đều phải thực hiện nghiêm pháp luật, có đạo đức trong sáng, chí công, vô tư, là tấm gương sáng để nhân dân học tập và làm theo.
Tiếp tục thể chế hoá, cụ thể hoá vai trò lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước và các tổ chức chính trị – xã hội. Đặc biệt, trong quan hệ giữa Đảng và Nhà nước, cần tránh hai khuynh hướng: làm thay và khoán trắng.
Tăng cường công tác tuyên truyền, vận động, phát huy quyền làm chủ của nhân dân, gắn bó chặt chẽ với nhân dân, giải quyết kịp thời những vướng mắc, bảo vệ quyền, lợi ích của người dân, dựa vào nhân dân để xây dựng Đảng. Cần tạo ra nhiều “kênh” để nhân dân thực hiện quyền làm chủ trực tiếp của mình, như: góp ý vào các quyết sách của Đảng, vào công tác cán bộ… Cùng với đó, Đảng cần tổ chức nhiều đợt lấy ý kiến của nhân dân; qua đó, làm cho nhân dân ta giác ngộ hơn nữa về chính trị, phát huy quyền làm chủ về chính trị của mình đối với các vấn đề trọng đại của đất nước./.
21/04/2016 22:29
Kể từ đó đến nay, sự vận hành của cơ chế Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ ngày càng được cụ thể hóa và hoạt động hiệu quả, thể hiện rõ tính ưu việt mối quan hệ Đảng-Nhà nước-Nhân dân trong chế độ xã hội chủ nghĩa (XHCN) ở Việt Nam. Kế thừa kinh nghiệm và kết quả 30 năm thực hiện đường lối đổi mới; trước yêu cầu nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, Văn kiện và Nghị quyết Đại hội XII của Đảng khẳng định: Tiếp tục thể chế hóa, cụ thể hóa mối quan hệ Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ, nhất là nội dung “nhân dân làm chủ” và phương châm "Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, giám sát"; coi đó là một trong những phương thức hữu hiệu để đưa Nghị quyết Đại hội XII của Đảng vào cuộc sống.
Trước hết, về Đảng lãnh đạo: Nhất quán với quan điểm, chủ trương, đường lối mà Đảng ta đã nêu ra qua các kỳ đại hội, tại Đại hội XII, Đảng ta tiếp tục khẳng định: Đảng lãnh đạo là yếu tố tiên quyết bảo đảm sự vận hành của cơ chế, làm cho cơ chế Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ đạt hiệu quả, thực sự đi vào cuộc sống. Sự khẳng định vai trò lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước, xã hội và cách mạng Việt Nam là vấn đề có tính nguyên tắc. Đây là quy luật khách quan, không tự nhiên mà có và không phải cứ tự nhận mà được. Bởi lẽ, sự lãnh đạo của Đảng đối với cách mạng Việt Nam đã được nhân dân thừa nhận từ sự kiểm nghiệm của thực tiễn lịch sử đấu tranh giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước; tiến hành công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; đem lại hòa bình, độc lập, tự do, ấm no, hạnh phúc cho nhân dân.
Để Đảng ta hoàn thành sứ mệnh lãnh đạo Nhà nước và xã hội, đáp ứng sự kỳ vọng, mong muốn của nhân dân, Đảng phải “đoàn kết, đổi mới, dân chủ, trí tuệ, kỷ cương”, có đường lối lãnh đạo đúng đắn và sáng suốt; có biện pháp nhân lên sức mạnh nội sinh, phát huy cao nhất sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc và thời đại; tạo mọi điều kiện thuận lợi để nhân dân làm chủ xã hội và phát huy tốt vai trò quản lý của Nhà nước ngay từng địa phương, cơ sở. Cùng với đó, Đảng phải đẩy mạnh đấu tranh phòng, chống nguy cơ thoái hóa, biến chất, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ; chủ động, tích cực đấu tranh phòng, chống chiến lược “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch. Không để đất nước bị động, bất ngờ. Điều đó chỉ có thể thực hiện tốt khi cơ chế vận hành: Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ được tiếp tục phát huy cao nhất; trong đó, Đảng phải thật sự là nhân tố lãnh đạo có trí tuệ, là đạo đức, là văn minh. Đại hội XII của Đảng nêu rõ nhiệm vụ và giải pháp trên 15 vấn đề lớn, trong đó “đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng” được xác định là: “Tiếp tục cụ thể hóa phương thức lãnh đạo của Đảng đã được xác định trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) ở tất cả các cấp bằng những quy chế, quy định, quy trình cụ thể. Quy định rõ hơn Đảng phục vụ nhân dân, chịu sự giám sát của nhân dân về những quyết định của mình”.
Thứ hai, về Nhà nước quản lý: Đây là yếu tố quyết định trực tiếp sự thành công, tính hiệu quả trong vận hành cơ chế. Đại hội XII chỉ rõ: Nhà nước ta là Nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Vì vậy, xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN ở Việt Nam; một mặt, Đảng đề cao vị trí, vai trò tối thượng của Hiến pháp, pháp luật đối với mọi mặt của đời sống xã hội. Mặt khác, khẳng định vai trò lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước và xã hội thông qua cương lĩnh, chủ trương, đường lối của Đảng, bởi nó được thể chế hóa qua hoạt động của Nhà nước; đặc biệt là thông qua công tác tổ chức cán bộ, Đảng thống nhất lãnh đạo, quản lý công tác này của cả hệ thống chính trị, trong đó chú trọng đào tạo, bồi dưỡng và sử dụng đội ngũ cán bộ công chức, viên chức và làm cho bộ máy Nhà nước hoạt động có hiệu quả nhất. Điều đó là hoàn toàn phù hợp với điều kiện nước ta, được khẳng định trong Điều lệ Đảng và hiến định trong Hiến pháp năm 2013. Bởi lẽ, Đảng ta là đảng cầm quyền, là hạt nhân lãnh đạo của hệ thống chính trị. Khâu then chốt có ý nghĩa quyết định làm cho cơ chế Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ vận hành thông suốt, có hiệu quả là Đảng phải thật sự trong sạch, vững mạnh về chính trị tư tưởng, tổ chức và đạo đức, gắn bó máu thịt với nhân dân vì nhân dân là yếu tố trung tâm của mọi quyền lực, là cội nguồn sức mạnh, bí quyết của mọi thành công. Vì vậy, mọi biểu hiện xa dân, coi thường dân, ức hiếp dân, gây phiền phức cho dân... đều làm cho Đảng tự suy yếu, lỏng lẻo, cơ chế Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ bị phá vỡ.
Chúng ta ý thức sâu sắc rằng, Nhà nước mạnh thì Đảng cầm quyền mới mạnh; Nhà nước vững mạnh thì quyền làm chủ của nhân dân mới được bảo đảm và phát huy cao nhất. Nhà nước và hoạt động của Nhà nước từ Trung ương đến cơ sở ngày càng nhận được sự ủng hộ của mọi tầng lớp nhân dân thì hiệu quả hoạt động của Nhà nước ngày càng cao, xã hội càng dân chủ; mục tiêu, lý tưởng của Đảng mới được thực hiện. Vì vậy, để tiếp tục hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân, Văn kiện Đại hội XII của Đảng khẳng định: “Thực hiện thí điểm dân trực tiếp bầu một số chức danh ở cơ sở và ở cấp huyện”. Đây là một trong những giải pháp nhằm thực hiện quyền làm chủ trực tiếp của nhân dân ngay từ địa phương.
Thứ ba, về nhân dân làm chủ: Đây là yếu tố trung tâm của cơ chế Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ. Tầm quan trọng đặc biệt của yếu tố này biểu hiện ở chỗ: Quyền lực của Đảng và Nhà nước đều từ quyền lực của nhân dân. Trong lịch sử Việt Nam, ông cha ta luôn đề cao và đặt lên hàng đầu vai trò của nhân dân trong cấu tạo quyền lực nhà nước và quyền lực xã hội. Đảng ta ra đời, tồn tại, phát triển không vì mục đích tự thân mà vì hạnh phúc của nhân dân. Điều này được thể hiện nhất quán hơn 86 năm lãnh đạo cách mạng Việt Nam, từ quan điểm lý luận đến thực tiễn cuộc sống. Vì vậy, Đại hội XII của Đảng tiếp tục khẳng định: Đảng Cộng sản Việt Nam là đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam; đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của dân tộc. Mục đích duy nhất của Đảng ta là đấu tranh giành độc lập dân tộc, thống nhất Tổ quốc, xây dựng đất nước giàu mạnh, phồn vinh, đồng bào được sống trong tự do, ấm no, hạnh phúc. Nhờ vậy, Đảng và Nhà nước ta luôn phát huy được sức mạnh của nhân dân để tiến hành đấu tranh giành và giữ vững độc lập, tự do và tiến hành thắng lợi công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Tuy nhiên, trong thực tế, có lúc, có nơi vai trò làm chủ của nhân dân vẫn còn mờ nhạt. Ở một số nơi, quyền làm chủ của nhân dân vẫn bị vi phạm... Văn kiện Đại hội XII chỉ rõ: “Sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc chưa được phát huy đầy đủ, có lúc, có nơi chưa phát huy được vai trò, sức mạnh của nhân dân” và “Quyền làm chủ của nhân dân ở nhiều nơi, nhiều lĩnh vực còn bị vi phạm. Có lúc, có nơi, việc thực hiện dân chủ còn hạn chế, hoặc mang tính hình thức”. Đây chính là vấn đề mà Đảng và Nhà nước ta cần phải nghiên cứu, giải quyết, nhằm phát huy tốt hơn nữa vai trò làm chủ của nhân dân trong thời kỳ mới.
Để tiếp tục vận hành cơ chế Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ trong tình hình mới hiệu quả hơn, Đại hội XII của Đảng chỉ rõ cần tập trung thực hiện tốt những vấn đề cơ bản sau đây:
Một là, đẩy mạnh việc thể chế hóa bằng pháp luật và sớm đưa vào đời sống mọi chủ trương, đường lối của Đảng, nhất là Văn kiện Đại hội XII. Hiến pháp năm 2013 xác định: Đảng là thành viên và đồng thời là hạt nhân của hệ thống chính trị, Đảng lãnh đạo Nhà nước và toàn xã hội; Đảng hoạt động trong khuôn khổ của Hiến pháp và pháp luật... Vì vậy, trong các văn bản quy phạm pháp luật, cần quy định rõ, cụ thể chức năng, nhiệm vụ của Đảng cầm quyền phù hợp với Hiến pháp và pháp luật. Cán bộ đảng viên phải thực hiện nghiêm Hiến pháp và pháp luật. Đây là những quy định bảo đảm cho Đảng luôn là một tổ chức chặt chẽ, giữ vững vai trò lãnh đạo, không lạm quyền, bao biện, làm thay chức năng, nhiệm vụ của Nhà nước, của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị-xã hội khác.
Hai là, tạo mọi điều kiện thuận lợi để nhân dân trực tiếp thể hiện, thực hiện quyền làm chủ trong hoạt động của Đảng, Nhà nước và hoạt động xã hội. Đại hội XII của Đảng khẳng định chúng ta xây dựng một xã hội do nhân dân làm chủ, quyền lực và hạnh phúc thuộc về nhân dân. Vì vậy, Đảng, Nhà nước cần tạo ra nhiều “kênh” để nhân dân thực hiện quyền làm chủ trực tiếp của mình, cần tổ chức nhiều đợt lấy ý kiến của nhân dân; phát huy quyền làm chủ về chính trị của mình đối với các vấn đề trọng đại của đất nước. Thực hiện tốt phương châm: Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, giám sát và quản lý mọi hoạt động của xã hội, của Đảng, Nhà nước theo Hiến pháp và pháp luật.
Ba là, tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng, đúng tinh thần Đại hội XII của Đảng. Cần tuyên truyền, giáo dục cho mọi người dân thực hiện: “Sống và làm việc theo Hiến pháp và pháp luật”, mọi người dân, bất kể là ai đều phải tuân thủ Hiến pháp và pháp luật; Nhà nước phải chịu sự lãnh đạo của Đảng và sự lãnh đạo ấy phải được thể chế bằng luật định; phải có quy định rõ ràng để bảo đảm tất cả mọi quyền lực đều thuộc về nhân dân; nhân dân có quyền kiểm soát Nhà nước, có quyền bãi miễn những đại biểu do mình bầu ra, nếu đại biểu đó mất tư cách và không làm tròn nhiệm vụ. Nhà nước tôn trọng và khuyến khích sự hoạt động của các tổ chức chính trị-xã hội theo đúng luật định. Đây chính là sự biểu hiện rõ nhất vai trò: “Nhà nước của dân, do dân, vì dân”; đồng thời, cũng là điểm biểu hiện rõ tư cách “nhân dân làm chủ” xã hội.
Đại hội XII của Đảng tiếp tục khẳng định cơ chế Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Nhân dân làm chủ không chỉ thể hiện sự nhất quán về quan điểm, đường lối, phương thức lãnh đạo của Đảng, mà còn khẳng định cơ chế này là bảo đảm chắc chắn nhất cho sự thành công của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Một trong những “chìa khóa” để thực hiện thành công cơ chế đó, như Văn kiện Đại hội XII khẳng định: “Đoàn kết trong Đảng là hạt nhân, là cơ sở vững chắc để xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc”; “Nhà nước bảo đảm và phát huy quyền làm chủ của nhân dân; công nhận, tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm quyền con người, quyền công dân”.
Thiếu tướng, PGS, TS NGUYỄN BÁ DƯƠNG, Viện trưởng Viện Khoa học Xã hội Nhân văn Quân sự Bộ Quốc phòng
(LLCT) - Trong xây dựng chế độ dân chủ XHCN ở nước ta, một chế độ xã hội “dân là chủ và dân làm chủ” Đảng đã sớm đề cập đến mối quan hệ giữa Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ. Tại Đại hội VI, Đảng đã coi “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ” là “cơ chế chung trong quản lý toàn bộ xã hội”(1). Cơ chế đó một mặt khẳng định vai trò của ba thành tố hợp thành, mặt khác cũng chỉ ra tính biện chứng khách quan (ràng buộc, đòi hỏi có nhau và tác động, quy định qua lại với nhau) giữa chúng.
Trong quá trình đổi mới, nhận thức về cơ chế tổng thể trên ngày càng rõ hơn, toàn diện hơn, cụ thể hơn. Về mặt thực tiễn, chúng ta cũng đã tập trung giải quyết những vấn đề mới đặt ra và có sự nỗ lực cao hiện thực hóa cơ chế đó trong đời sống xã hội. Tuy nhiên cho đến nay, trên cả hai phương diện - nhận thức và thực tiễn - mặc dầu có những bước tiến thực sự, song còn không ít các vấn đề mới đặt ra cần tiếp tục giải quyết. Chính vì vậy, trong Văn kiện Đại hội XI, Đảng coi mối quan hệ giữa Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ là một trong những mối quan hệ lớn phải đặc biệt chú trọng nắm vững và giải quyết tốt.
Để góp phần giải quyết có hiệu quả mối quan hệ này, điều mấu chốt nhất trong điều kiện nước ta hiện nay là cần có sự thống nhất cao về nhận thức và thực tiễn tính hướng đích của mối quan hệ trong cơ chế tổng thể.
Ba thành tố tồn tại trong mối quan hệ biện chứng đòi hỏi có nhau, tác động qua lại với nhau tạo thành một chỉnh thể thống nhất. Trong đó nhân dân làm chủ là yếu tố trung tâm, bởi vì mọi hoạt động của Đảng và Nhà nước đều từ nhân dân và vì nhân dân. Tuy nhiên, trong thực tế thành tố nhân dân làm chủ vẫn chưa được chú trọng đúng mức, với tư cách vừa là một thành tố không tách rời trong cơ chế tổng thể, vừa là mục tiêu cao nhất khi triển khai thực hiện cơ chế đó. Thậm chí có khuynh hướng chỉ nhấn mạnh một chiều vai trò lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước. Từ đó, việc tìm kiếm, xây dựng những cơ chế, chính sách, điều kiện bảo đảm cho “nhân dân làm chủ” không được quan tâm đúng mức.
Nhân dân làm chủ còn được quan niệm giản đơn chỉ như là hệ quả, là kết quả của Đảng lãnh đạo và Nhà nước quản lý thì cơ chế đó chưa đạt mục tiêu. Bởi như vậy có nghĩa là “Đảng và Nhà nước nhân danh nhân dân làm chủ”, “Đảng và Nhà nước làm chủ thay dân”, chứ chưa đạt mục đích “nhân dân làm chủ”, nhân dân là người thực hành dân chủ, thực hiện quyền làm chủ của mình. Nếu coi nhân dân làm chủ chỉ như là kết quả của Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý thì Đảng, Nhà nước, cán bộ, đảng viên khó tránh khỏi tình trạng chuyển hóa từ chỗ là “công bộc”, “đày tớ” thành “ông chủ” - như C.Mác, Ph.Ăngghen và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã cảnh báo.
V.I Lênin đã dạy: “Không chỉ tuyên truyền về dân chủ, tuyên bố và ra sắc lệnh về dân chủ là đủ, không phải chỉ giao trách nhiệm thực hiện chế độ dân chủ cho “những người đại diện” nhân dân, trong những cơ quan đại biểu là đủ. Cần phải xây dựng ngay chế độ dân chủ bắt đầu từ cơ sở, dựa vào sáng kiến của bản thân quần chúng, với sự tham gia thực sự của quần chúng vào tất cả đời sống của nhà nước, không có sự “giám sát” từ trên, không có quan lại”(2).
Để xây dựng được một chế độ dân chủ cao, nhân dân phải có ý thức, năng lực và đòi hỏi dân chủ ngày càng cao. Nhân dân “phải hiểu biết quyền lợi của mình, bổn phận của mình, phải có kiến thức mới để có thể tham gia vào công cuộc xây dựng nước nhà”(3). Người dân muốn làm chủ, chẳng những phải biết hưởng quyền làm chủ, mà còn phải biết dùng quyền làm chủ, đồng thời dám nói, dám làm.
Kinh nghiệm xây dựng chế độ dân chủ trong lịch sử nhân loại đã cho thấy rằng dân chủ chỉ đầy đủ và thực chất nếu đó là đòi hỏi từ cuộc sống, đòi hỏi của người dân. Dân chủ là thành quả của lịch sử nhân loại. Thành quả đó không phải tự nhiên mà có mà là kết quả của cuộc đấu tranh lâu dài và gian khổ của quần chúng nhân dân. Nhân dân lao động ở các nước tư bản hiện nay được hưởng một số quyền dân chủ, đó cũng không phải cái gì khác hơn là thành quả của cuộc đấu tranh lâu dài và phải hy sinh biết bao xương máu mới có được.
Nước ta xây dựng chế độ dân chủ XHCN trong điều kiện chưa trải qua chế độ dân chủ tư sản, nên phần lớn quần chúng nhân dân chưa ý thức một cách đầy đủ về dân chủ. Bên cạnh đó, với những thành quả to lớn của cuộc cách mạng dân tộc dân chủ, nhân dân Việt Nam tin tưởng tuyệt đối vào Đảng và Nhà nước. Từ đó, nhân dân dễ dàng giao phó việc xây dựng chế độ dân chủ cho Đảng, Nhà nước, “khoán trắng” việc thực hiện quyền lực nhà nước cho những “người đại diện” của mình. Hiện nay, trong cơ quan Đảng và Nhà nước xuất hiện những hiện tượng tiêu cực, quan liêu, gây ra những bức bối trong nhân dân. Nhưng nhân dân vẫn chờ đợi một sự thay đổi của Đảng, Nhà nước. Điều đó một mặt thể hiện lòng tin của nhân dân đối với Đảng và Nhà nước, nhưng mặt khác cũng biểu hiện tình trạng bị động, thụ động của nhân dân trong xây dựng chế độ dân chủ. Kinh nghiệm thực tế cho thấy rằng mỗi khi người dân không thiết tha gì với dân chủ. Do vậy dân chủ sẽ còn tính hình thức và hạn chế.
Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý - xét về mặt lý thuyết là những hình thức chủ yếu của nhân dân làm chủ, Đảng và Nhà nước thay mặt nhân dân làm chủ. Nhưng nếu chỉ dừng lại ở những hình thức đó thì không những không đầy đủ, mà còn dễ làm biến dạng chế độ dân chủ, làm tha hóa bản chất của dân chủ.
Do vậy, để đạt được mục tiêu cao nhất của cơ chế Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ phải nâng cao ý thức, năng lực làm chủ của nhân dân. Làm điều đó dĩ nhiên không chỉ bằng giáo dục, công tác truyên tuyền mà bằng những biện pháp thiết thực. Cụ thể:
Một là, xây dựng, hoàn thiện nền kinh tế thị trường định hướng XHCN làm cơ sở, nền tảng cho chế độ dân chủ XHCN.
Nền kinh tế thị trường là cơ sở, nền tảng của chế độ dân chủ tư sản. V.I.Lênin đã chỉ ra rằng: “như bộ Tư bản đã vạch rõ, miếng đất đã làm mọc lên những tư tưởng về tự do và bình đẳng chính là nền sản xuất hàng hóa”(4). Rằng nền kinh tế đó “đẻ ra những nguyện vọng dân chủ trong quần chúng,... làm cho quần chúng khát khao dân chủ”(5) .
Để vượt qua được hạn chế về dân chủ trong điều kiện nền kinh tế thị trường TBCN và nền kinh tế tập trung, quan liêu, bao cấp, Đảng đã chủ trương xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Trong nền kinh tế đó, người dân được tự do lựa chọn ngành nghề, tự do, chủ động sáng tạo trong hoạt động sản xuất - kinh doanh và đặc biệt có nhu cầu, đòi hỏi dân chủ ngày càng cao hơn. Từ đó, dân chủ trong những năm đổi mới, nhất là trong lĩnh vực kinh tế đạt được những thành tựu đáng ghi nhận. Vấn đề đặt ra hiện nay là phải tiếp tục hoàn thiện thể chế của nền kinh tế đó.
Hai là, đổi mới, đa dạng hóa tổ chức và hoạt động các tổ chức chính trị - xã hội để thực sự là những hình thức để nhân dân làm chủ, là “trường học” giáo dục, nâng cao ý thức, năng lực dân chủ của nhân dân.
Nhân dân thực hiện quyền làm chủ không chỉ bằng Nhà nước, mà còn thông qua các tổ chức của mình.
Mặt trậnTổ quốcvà các tổ chức chính trị - xã hộicó vai trò to lớn trong việc củng cố, bảo vệ Đảng, chính quyền nhà nước, hơn nữa đó là những thiết chế có vai trò quan trọng thực hiện quyền làm chủ của nhân dân, đồng thời là môi trường, là trường học để nâng cao ý thức, năng lực và nhu cầu dân chủ cho các tầng lớp nhân dân.
Trong cách mạng dân tộc dân chủ, Mặt trận và các đoàn thể nhân dân đóng vai trò to lớn trong quá trình xây dựng và bảo vệ chính quyền cách mạng. Nhưng từ khi cả nước bước vào thời kỳ hòa bình xây dựng, các tổ chức quần chúng rơi vào tình trạng “quan liêu hóa”, “nhà nước hóa” hoạt động một cách hình thức, kém hiệu quả. Quyền làm chủ của nhân dân thực hiện thông qua những tổ chức này mang nặng hình thức. Đây là một trong những nguyên nhân làm cho Nhà nước, chế độ dân chủ nảy sinh nhiều khuyết tật, nhược điểm, hoạt động kém hiệu lực, hiệu quả.
Để những tổ chức này thực sự là những thiết chế dân chủ, thiết chế để các tầng lớp nhân dân tham gia công việc Nhà nước, quản lý, giám sát hoạt động của Nhà nước, phải đổi mới trên nhiều mặt theo hướng khắc phục tình trạng “hành chính hóa”, “nhà nước hóa” trong tổ chức và hoạt động. Đồng thời, đa dạng hóa hình thức tổ chức và phương thức hoạt động phù hợp với tính chất quần chúng và những biến động đa dạng về cơ cấu giai cấp - xã hội trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN.
Qua gần 30 năm đổi mới, các tổ chức chính trị - xã hội đã có những đổi mới quan trọng. Tuy nhiên, hiệu quả hoạt động của các tổ chức này chưa đáp ứng được đòi hỏi của tình hình. Tình trạng các đoàn thể nhân dân hoạt động hình thức, kém hiệu quả còn khá phổ biến. Nhiều cuộc phản ứng tập thể, đình công của công nhân xuất hiện tự phát mà các đoàn thể không biết trước. Điều đó chứng tỏ các tổ chức chính trị - xã hội chưa nắm chắc quần chúng, chưa phải tất cả quần chúng đã thực sự đặt niềm tin và coi các tổ chức đó là tổ chức của mình. Các tổ chức chính trị - xã hội vẫn chưa thực sự thu hút được sự tham gia một cách chủ động, tích cực, tự giác của đoàn viên, hội viên. Sự tham gia vào các tổ chức quần chúng nhiều khi còn mang nặng hình thức, chiếu lệ. Để phát huy dân chủ, phải tiếp tục đổi mới, nâng cao chất lượng hoạt động của Mặt trận, các đoàn thể nhân dân và các hội quần chúng, khắc phục tình trạng hành chính hóa, phô trương, hình thức.
Để phát huy dân chủ, phát huy vai trò làm chủ của nhân dân, ngoài việc đổi mới những tổ chức đã có, cần hình thành thêm những tổ chức mới đáp ứng những nhu cầu chính đáng về nghề nghiệp, nâng cao hiểu biết và đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân, hoạt động theo hướng vừa ích nước, vừa lợi nhà, tương thân, tương ái.
Một xã hội dân chủ là một xã hội không bỏ sót bất cứ một tổ chức, cá nhân nào có khả năng đóng góp vào công việc chung, đồng thời có sự phát triển cho bản thân mình. Trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN việc xuất hiện những tổ chức xã hội, những hiệp hội, nghề nghiệp đại biểu cho các chủ thể sản xuất kinh doanh khác nhau là một tất yếu khách quan. Vì vậy, Nhà nước cần “Sớm ban hành Luật về hội”(6) thể chế hóa quyền hạn và trách nhiệm của các tổ chức đó. Đảng và Nhà nước cần chủ động hướng dẫn, lãnh đạo việc hình thành những tổ chức mới, phát huy tính tích cực xã hội của các tầng lớp dân cư, đồng thời hạn chế việc hình thành các tổ chức một cách tự phát, chống việc lợi dụng dân chủ để gây ra những hành vi cực đoan, quá khích.
Hiện nay các tổ chức chính trị - xã hội nước ta đã có bước phát triển tương đối phong phú, đa dạng.Ngoài các đoàn thể nhân dân có tính chất chính trị - xã hội ngày càng xuất hiện nhiều tổ chức xã hội - nghề nghiệp, tổ chức nhân đạo từ thiện, các nhóm cộng đồng…và hàng trăm hội, hiệp hội được thành lập và hoạt động trong tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội.
Ba là,Đảng, Nhà nước xây dựng, ban hành cơ chế, quy chế, chính sách tạo điều kiện và lôi cuốn các tổ chức quần chúng, các đoàn thể nhân dân và người dân tham gia xây dựng Đảng, tham gia công việc Nhà nước, giám sát hoạt động của Nhà nước.
Về điều này Đảng ta đã chỉ ra rằng: “Đảng tôn trọng tính tự chủ, ủng hộ mọi hoạt động tự nguyện, tích cực, sáng tạo và chân thành lắng nghe ý kiến đóng góp của Mặt trận và các đoàn thể”(7). “Đảng và Nhà nước có cơ chế , chính sách, tạo điều kiện để Mặt trận và các đoàn thể nhân dân hoạt động có hiệu quả, thực hiện vai trò giám sát và phản biện xã hội”(8).
Những quy chế, cơ chế lôi cuốn nhân dân tham gia xây dựng Đảng, tham gia công việc Nhà nước, giám sát hoạt động của Nhà nước phải cụ thể, dễ thực hiện và đặc biệt phải cho nhân dân thấy được lợi ích và hiệu quả của việc thực hiện. Có như vậy mới tránh được sự tham gia một cách hình thức, chiếu lệ như vẫn xảy ra.
Một trong những cơ chế, quy chế mà gần đây được nói tới nhiều nhất là cơ chế để Mặt trận và các đoàn thể nhân dân thực hiện tốt vai trò giám sát và phản biện xã hội. Về chủ trương này, tại Đại hội X Đảng đã chỉ ra : “xây dựng quy chế giám sát và phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội và nhân dân đối với việc hoạch định đường lối, chủ trương, chính sách, quyết định lớn của Đảng và việc tổ chức thực hiện, kể cả đối với công tác tổ chức và cán bộ”(9). Ngày 12-12-2013, Bộ Chính trị ban hành 2 quyết định: Quyết định số 217-QĐ/TW về “Quy chế giám sát và phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các đoàn thể chính trị - xã hội”; và Quyết định số 218-QĐ/TW “Quy định về việc Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các đoàn thể chính trị - xã hội và nhân dân tham gia góp ý xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền”. Đó là bước tiến trong việc lôi cuốn nhân dân tham gia xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền, tham gia giám sát và phản biện xã hội. Dĩ nhiên cụ thể hóa và triển khai như thế nào để các tổ chức và nhân dân tham gia tích cực và có hiệu quả vẫn còn là nhiệm vụ trước mắt.
Các biện pháp trên đây chưa phải là tất cả, nhưng tiếp tục đi sâu nghiên cứu, tổng kết rút kinh nghiệm, tìm kiếm ngày càng nhiều những hình thức đa dạng và cụ thể hóa cho thật sát với thực tế, phù hợp với sự phát triển trình độ mọi mặt của nhân dân là có ý nghĩa rất lớn trong quá trình xây dựng và hoàn thiện chế độ “nhân dân làm chủ” ở nước ta hiện nay.
_____________________
Bài đăng trên Tạp chí Lý luận chính trị số 1-2016
(1) ĐCSVN: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, Nxb Sự thật, Hà Nội, 1987, tr.109.
(2) V.I.Lênin: Toàn tập, t.31, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva, 1976, tr.336-337.
(3) Hồ Chí Minh : Toàn tập, t.4, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2000, tr.36.
(4) V.I.Lênin: Toàn tập, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva, 1974, t.1, tr.594.
(5) V.I.Lênin: Toàn tập, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva, 1981, t.30, tr.92.
(6) ĐCSVN: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX,Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2001, tr.130-131.
(7), (8) ĐCSVN:Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI,Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tr.87, 87.
(9) ĐCSVN:Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X,NxbChính trị Quốc gia, Hà Nội, 2006, tr.135.
PGS, TS Trần Thành
Viện Triết học,
Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh
Kiểm soát quyền lực nhà nước trong xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) đã khẳng định: “Nhà nước ta là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa (XHCN) của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân”1; tổ chức và hoạt động của nó dựa trên một trong những nguyên tắc nền tảng: “Quyền lực Nhà nước là thống nhất; có sự phân công, phối hợp và kiểm soát giữa các cơ quan trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp ”2. So với Cương lĩnh năm 1991, lần này Cương lĩnh chẳng những bổ sung thêm “Nhà nước ta là Nhà nước pháp quyền XHCN” mà còn đưa một nội dung mới vào nguyên tắc tổ chức và hoạt động của bộ máy Nhà nước là “Kiểm soát giữa các cơ quan trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp”. Sự bổ sung và phát triển này có ý nghĩa gì? Và nội dung của nó như thế nào?
- Trước hết, kiểm soát quyền lực nhà nước bắt nguồn từ nguồn gốc và bản chất của Nhà nước pháp quyền XHCN là “Tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân”. Quyền lực nhà nước không phải là quyền lực tự có của Nhà nước mà quyền lực của nhân dân, được nhân dân ủy quyền, nhân dân giao quyền. Nhân dân không trực tiếp thực hiện quyền lực nhà nước của mình mà lại giao cho Nhà nước thay mình thực hiện, nên tất yếu nảy sinh đòi hỏi chính đáng và tự nhiên phải kiểm soát quyền lực nhà nước. Mặt khác, khi ủy quyền cho Nhà nước, quyền lực nhà nước lại thường vận động theo xu hướng tự phủ định mình, trở thành đối lập với chính mình lúc ban đầu (từ của nhân dân là số đông chuyển sang số ít của một nhóm người hoặc của một người). C.Mác gọi hiện tượng này là sự tha hóa của quyền lực nhà nước. Quyền lực nhà nước là của nhân dân giao cho các cơ quan nhà nước suy cho cùng là giao cho những con người cụ thể thực thi. Mà hành động của con người thì luôn luôn chịu sự tác động của các loại tình cảm và dục vọng khiến cho lý tính đôi khi bị chìm khuất3. Đặc biệt là khi lý tính bị chi phối bởi các dục vọng, thói quen hay tình cảm thì khả năng sai lầm trong việc thực thi quyền lực nhà nước càng lớn. Với đặc điểm đó của con người, không thể khẳng định người được ủy quyền luôn luôn làm đúng, làm đủ những gì mà nhân dân đã ủy quyền. Vì vậy, kiểm soát quyền lực nhà nước là một nhu cầu khách quan từ phía người ủy quyền là nhân dân đối với người được ủy quyền là Nhà nước. Hơn thế nữa, quyền lực nhà nước không phải là một đại lượng có thể cân, đong, đo, đếm xác định được một cách chính xác, để có thể giao quyền một cách cụ thể. Điều đó lại càng đòi hỏi phải kiểm soát quyền lực nhà nước để hạn chế sự lộng quyền, lạm quyền, mâu thuẫn chồng chéo hoặc trùng lắp trong quá trình thực thi quyền lực nhà nước giữa các cơ quan nhà nước, làm cho hiệu lực và hiệu quả thực thi quyền lực nhà nước bị hạn chế.
Xuất phát từ đòi hỏi khách quan nói trên, quyền lực nhà nước thường được lượng hóa, phân định thành các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp. Sự lượng hóa này là để giao cho các cơ quan nhà nước khác nhau, thay mặt nhân dân thực hiện. Sự phân định các quyền như vậy là điều kiện cơ bản để nhân dân giao quyền mà không bị lạm quyền, nhân dân kiểm soát và đánh giá được hiệu lực và hiệu quả thực hiện các quyền mà mình đã giao. Đồng thời cũng là để cho các cơ quan tương ứng được giao quyền đề cao trách nhiệm trong việc thực thi quyền lực nhà nước và tự kiểm tra việc thực hiện quyền lực nhà nước được giao của mình. Vì thế, phân công quyền lực nhà nước là cơ sở, là đòi hỏi khách quan để thực hiện được việc kiểm soát quyền lực nhà nước.
Quyền lập pháp là quyền đại diện cho nhân dân thể hiện ý chí chung của quốc gia. Những người được nhân dân trao quyền này là những người do phổ thông đầu phiếu bầu ra hợp thành cơ quan gọi là Quốc hội. Thuộc tính cơ bản, xuyên suốt mọi hoạt động của quyền này là đại diện cho nhân dân, bảo đảm cho ý chí chung của nhân dân được thể hiện trong các đạo luật mà mình là cơ quan duy nhất được nhân dân giao quyền biểu quyết thông qua luật là quyền lập pháp. Đồng thời, là người thay mặt nhân dân giám sát tối cao mọi hoạt động của Nhà nước, nhất là hoạt động thực hiện quyền hành pháp. Đây là một hình thức kiểm soát quyền lực nhà nước bên trong tổ chức bộ máy nhà nước để góp phần giúp cho các cơ quan hành pháp và tư pháp làm đúng, làm đủ nhiệm vụ quyền hạn được giao, hạn chế sự lạm quyền, lộng quyền.
Quyền hành pháp là quyền tổ chức thực hiện ý chí chung của quốc gia do Chính phủ đảm trách. Thuộc tính cơ bản, xuyên suốt mọi hoạt động của quyền này là quản lý nhà nước (hay cai trị) mà thực chất là tổ chức thực hiện pháp luật để bảo đảm an ninh, an toàn và phát triển xã hội. Không có một Chính phủ quản lý nhà nước hữu hiệu, thông minh thì không thể có một Nhà nước giàu có, phát triển ổn định cả về mặt kinh tế lẫn mặt xã hội. Thực hiện quyền này đòi hỏi Chính phủ và các thành viên của Chính phủ phải nhanh nhạy, quyết đoán kịp thời và quyền uy tập trung thống nhất. Đồng thời phải thường xuyên kiểm tra, thanh tra - một hình thức kiểm soát quyền lực bên trong bộ máy hành pháp.
Quyền tư pháp là quyền xét xử, được nhân dân giao cho Tòa án và các cơ quan tư pháp. Độc lập và chỉ tuân theo pháp luật là nguyên tắc xuyên suốt và cao nhất trong tổ chức thực hiện quyền này. Mọi cá nhân, cơ quan, tổ chức không được phép can thiệp vào hoạt động xét xử của Tòa án. Đây thực chất là quyền bảo vệ ý chí chung của quốc gia bằng việc xét xử các hành vi vi phạm Hiến pháp, pháp luật từ phía công dân và cơ quan nhà nước. Vì vậy, bảo vệ pháp luật, công lý, tự do của công dân là trách nhiệm hàng đầu của quyền tư pháp. Mọi cơ quan, tổ chức và cá nhân có nghĩa vụ tôn trọng, giữ gìn và bảo vệ tính pháp quyền và công lý trong các phán quyết của Tòa án. Kiểm sát các hoạt động tư pháp của Viện kiểm sát, phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm của Tòa án - là các hình thức kiểm soát quyền lực nhà nước bên trong bộ máy tư pháp để đảm bảo cho quyền tư pháp độc lập và chỉ tuân theo pháp luật.
Như vậy, xuất phát từ đặc điểm của quyền lực nhà nước, việc phân định thành ba quyền nói trên là một nhu cầu khách quan. Thực tiễn xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN ở nước ta chỉ ra rằng, việc phân định rành mạch ba quyền là cách thức tốt nhất để phát huy vai trò của nhà nước đồng thời là cơ sở để kiểm soát việc thực hiện quyền lực nhà nước.
Ngoài ra, trong quan hệ với quyền lực nhà nước, một thực tế khách quan thường xảy ra là công dân không được bình đẳng với Nhà nước về thông tin, nên thường xảy ra tình trạng: (1) người chủ quyền lực nhà nước (nhân dân) thiếu thông tin hoặc không được thông tin đầy đủ; (2) khả năng Nhà nước không nắm bắt đúng mục đích, lợi ích của nhân dân; (3) khả năng những người thực thi quyền lực cụ thể không hiểu rõ mục đích; (4) khả năng hiểu đúng mục đích nhưng không sử dụng quyền lực đúng cách, hợp lý; (5) khả năng các đại diện vì lợi ích riêng có thể vượt quyền, lạm quyền làm tổn hại đến mục đích chung. Hơn nữa, Nhà nước là tổ chức duy nhất có thuộc tính cưỡng chế. “Thuộc tính cưỡng chế mang lại cho Nhà nước quyền lực can thiệp một cách có hiệu quả vào các hoạt động chính trị, kinh tế, xã hội, nhưng với độc quyền này, Nhà nước có thể can thiệp một cách độc đoán, chuyên quyền, xâm hại đến quyền và lợi ích hợp pháp của con người. Quyền này cộng với bất bình đẳng về thông tin giữa dân chúng và Nhà nước tạo ra những cơ hội cho các công chức xúc tiến những lợi ích của riêng họ hay những bạn bè đồng minh của họ, làm thiệt hại cho lợi ích chung. Những khả năng kiếm lợi và tham nhũng là rất lớn4.
- Hai là, kiểm soát quyền lực trong Nhà nước pháp quyền XHCN còn là tất yếu kỹ thuật để thực thi quyền lực đạt hiệu quả. Quyền lực nhà nước nếu không được tổ chức thành hệ thống, tuân theo những nguyên tắc, cơ chế, quy trình nhất định và được thực thi bởi những con người cụ thể thì quyền lực không phát huy được vai trò của mình. Ngày nay, cùng với sự phát triển như vũ bão của khoa học và công nghệ, xã hội càng trở nên hiện đại, tổ chức quyền lực nhà nước lại càng phải có sự phân công, phối hợp và kiểm soát. Đây là một yêu cầu khách quan do sự phân công lao động xã hội, do tính chuyên nghiệp hóa của hoạt động quyền lực. Đồng thời trong lao động quyền lực cũng có những hạn chế. Trước hết, khả năng của con người là hữu hạn bắt nguồn từ sự hữu hạn của trí tuệ và lý tính của mình. Dù một người có trí tuệ siêu việt, là “thánh nhân” như thế nào đi nữa thì khả năng sai lầm vẫn có thể xảy ra “loài người không phải là thánh thần không bao giờ sai lầm, chân lý của họ phần nhiều chỉ là các chân lý một nửa”5.
Do vậy, khả năng sai lệch trong nhận thức và thực thi quyền lực nhà nước, khả năng sử dụng quyền lực thiếu hiệu quả là có thể xảy ra.
Hơn nữa, con người bị điều khiển bởi nhiều khát vọng, trong đó có khát vọng về quyền lực vừa là mục tiêu, vừa là công cụ để đạt được các khát vọng khác. Hobbes nhấn mạnh: “Tinh thần vị kỷ trong loài người là một khát vọng không ngừng đối với quyền lực và điều này chỉ mất đi khi con người chết”6. C. Mác - cũng như Locke và Hobbes - đều cho rằng, bản chất của con người là có thể thay đổi được. Do đó, không thể khẳng định người được ủy quyền luôn xứng đáng với sự tín nhiệm của nhân dân. Vì vậy, trong tổ chức quyền lực nhà nước cần phải có sự kiểm soát một cách chặt chẽ những con người làm việc trong bộ máy quyền lực nhà nước, để có thể phát hiện và xử lý được khi những người này không còn xứng đáng với sự tín nhiệm của nhân dân.
- Ba là, kiểm soát quyền lực trong xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam còn bắt nguồn từ đặc trưng Nhà nước ta do một Đảng duy nhất lãnh đạo. Sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam đối với Nhà nước và xã hội là một tất yếu lịch sử. Tất yếu đó đòi hỏi phải kiểm soát quyền lực giữa các chủ thể cấu thành hệ thống chính trị ở nước ta. Đó là:
+ Kiểm soát của nhân dân, chủ thể tối cao của quyền lực nhà nước đối với quyền lực nhà nước.
+ Kiểm soát quyền lực nhà nước bên trong tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước giữa các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp, giữa quyền lực nhà nước ở trung ương và quyền lực nhà nước ở địa phương.
+ Kiểm soát của chủ thể lãnh đạo nhà nước là Đảng cộng sản Việt Nam đối với Nhà nước.
Kiểm soát quyền lực nhà nước giữa các chủ thể nói trên là nhằm đảm bảo cho tổ chức và hoạt động của Nhà nước vận hành nhịp nhàng, ăn khớp và thông suốt, chống được lạm quyền, lộng quyền. Tổ chức và hoạt động của quyền lực nhà nước có sự kiểm soát thì “tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân” không chỉ tuyên bố trong Cương lĩnh, trong Hiến pháp mà là điều kiện làm cho nó trở thành hiện thực. Do đó, “kiểm soát quyền lực” thực chất là kiểm soát quyền lực nhà nước để đảm bảo cho tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân, bản chất của Nhà nước pháp quyền XHCN mà Đảng và Nhà nước ta đang hướng tới xây dựng.
Kiểm soát quyền lực nhà nước là một vấn đề phức tạp, bởi sự phức tạp của tổ chức quyền lực nhà nước và hoạt động thực thi quyền lực nhà nước. Tính phức tạp đó, một mặt do kiểm soát việc sử dụng quyền lực nhà nước để chống sự lạm dụng nó là đòi hỏi bắt buộc đối với bất kỳ nhà nước dân chủ và pháp quyền nào. Nhưng mặt khác, kiểm soát được việc sử dụng quyền lực nhà nước mà lại không làm mất đi tính năng động, mềm dẻo cần phải có để tiến hành các công việc nhà nước. Cái khó nhất trong thiết kế một chính quyền nhà nước trước hết là làm cho bộ máy nhà nước có khả năng kiểm soát được xã hội và sau nữa - không kém phần quan trọng - là buộc Nhà nước phải tự kiểm soát được chính mình. Vì thế, kiểm soát quyền lực nhà nước theo nghĩa rộng chính là việc thiết kế tổ chức và thực thi quyền lực nhà nước sao cho đạt được mục đích chính trị chung và đạt được hiệu quả cao nhất. Xét theo nghĩa hẹp, kiểm soát quyền lực nhà nước là toàn bộ những phương thức, quy trình, quy định mà dựa vào đó, Nhà nước và xã hội có thể ngăn chặn, loại bỏ những hoạt động sai trái của các thiết chế quyền lực nhà nước, phát hiện và điều chỉnh được việc thực thi quyền lực nhà nước, đảm bảo cho quyền lực nhà nước thực thi đúng mục đích chung và đạt được hiệu quả cao nhất. Vì thế, quyền lực nhà nước chỉ có thể kiểm soát được khi có cơ chế xác định và các điều kiện cần thiết cho sự vận hành của nó trên thực tế. Cơ chế đó bao gồm kiểm soát bên ngoài, lẫn kiểm soát bên trong quyền lực nhà nước.
Mục đích của kiểm soát quyền lực nhà nước, theo chủ nghĩa Mác - Lênin, là loại bỏ những điều kiện xã hội đã sản sinh ra Nhà nước và giai cấp. Đây chính là quá trình khắc phục sự tha hóa của quyền lực nhà nước, đưa quyền lực nhà nước trở về với đúng nghĩa của nó là quyền lực của nhân dân, quyền lực thực hiện chức năng công quản xã hội. Vì thế, có thể nói, nội dung của kiểm soát quyền lực nhà nước là: (i) đảm bảo cho quyền lực nhà nước được sử dụng đúng mục đích; (ii) đảm bảo cho quyền lực nhà nước thực thi có hiệu lực, hiệu quả.
Cần phải nhận thức sâu sắc vai trò của kiểm soát quyền lực nhà nước. Bởi trong Nhà nước dân chủ và pháp quyền thì quan hệ giữa Nhà nước và nhân dân là quan hệ đại diện, ủy quyền. Bản thân quan hệ này cần phải khắc phục các biểu hiện sau:
Một là, giữa người chủ và người đại diện có thể xảy ra mâu thuẫn về lợi ích. Nếu xảy ra điều đó thì kết quả là người chủ phải chịu sự thiệt thòi nào đó về lợi ích của mình, do người đại diện không làm đúng, làm đủ nhiệm vụ và quyền hạn được giao; người chủ phải chịu những tổn thất do người đại diện gây ra.
Hai là, sự không bình đẳng về thông tin và hành động giữa người chủ và người đại diện nhất là trong điều kiện của nền kinh tế tri thức và khoa học công nghệ phát triển như vũ bão. Người đại diện vốn có những thông tin mà người chủ không thể có hoặc phải chi phí lớn mới có được. Người đại diện lại có thể sử dụng nhiều hành động khác nhau làm cho người chủ khó lòng mà nhận xét và kết luận về tính đúng đắn của các kết quả do họ đưa ra.
Ba là, trong các thể chế dân chủ, tổ chức và hoạt động quyền lực nhà nước thường xảy ra một thực tế là: có trường hợp thiểu số là đúng và hợp lý nhưng vẫn phải chịu sự chi phối và quyết định của đa số thiển cận. Đây là vấn đề nan giải đã được đặt ra từ lâu trong lịch sử chính trị và được Madison khái quát thành “sự chuyên chế của đa số”.
Để khắc phục những nhược điểm nói trên của lao động quyền lực nhà nước, kiểm soát quyền lực được xem là một nguyên tắc hiến định. Vì thế, kiểm soát quyền lực phải được ghi nhận và bổ sung vào Hiến pháp năm 1992 và tiếp tục thể chế trong các đạo luật về tổ chức bộ máy nhà nước. Việc thể chế nguyên tắc kiểm soát quyền lực của Cương lĩnh thành nguyên tắc hiến định và tiếp tục cụ thể hóa trong các đạo luật về tổ chức bộ máy nhà nước trong thời gian sắp tới, cần tập trung vào các nội dung sau đây:
- Xuất phát từ bản chất của hệ thống chính trị nước ta được tổ chức và hoạt động theo cơ chế Đảng lãnh đạo, nhân dân làm chủ và Nhà nước quản lý, nên kiểm soát quyền lực nhà nước là kiểm soát quyền lực nhà nước giữa Đảng lãnh đạo đối với Nhà nước quản lý. Đây là đặc điểm thể hiện mối quan hệ tất yếu lịch sử và khách quan ở nước ta. Trong suốt 80 năm qua, Đảng ta đã trải qua 15 năm lãnh đạo nhân dân đấu tranh cách mạng giành chính quyền, hơn 65 năm cầm quyền - trong đó 30 năm cầm quyền trong hoàn cảnh chiến tranh ác liệt chống thực dân và đế quốc xâm lược giành độc lập dân tộc và xây dựng chủ nghĩa xã hội trên phạm vi cả nước và 35 năm cầm quyền trong hòa bình xây dựng đất nước. Lịch sử đã chứng minh một cách thuyết phục về tính tất yếu khách quan của sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với Nhà nước. Với đặc điểm khách quan này, trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN đòi hỏi phải có sự kiểm soát quyền lực nhà nước của Đảng, đảm bảo vai trò lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước, hạn chế sự dựa dẫm, ỷ lại của Nhà nước, làm cho cả hai đều yếu, không phát huy đúng vị trí và vai trò của mình. Dưới ánh sáng của đường lối xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN thật sự của dân, do dân và vì dân với nguyên tắc: “Quyền lực nhà nước là thống nhất nhưng có sự phân công, phối hợp và kiểm soát trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp” đã được ghi nhận trong Cương lĩnh của Đảng, đòi hỏi phải tiếp tục đổi mới về nội dung và phương thức lãnh đạo của Đảng, để xứng đáng là một Đảng cầm quyền về trí tuệ, về tư tưởng, về phẩm chất năng lực lãnh đạo và hoạt động thực tiễn. Vấn đề trước hết trong mối quan hệ này là phân công trách nhiệm giữa Đảng lãnh đạo và Nhà nước quản lý như thế nào cho rõ ràng, minh bạch, có hiệu lực và hiệu quả, để Đảng không quyết định thay Nhà nước, để phát huy dân chủ, tập hợp trí tuệ của các tầng lớp nhân dân, tạo sự đồng thuận giữa Đảng, Nhà nước và nhân dân đối với những quyết định trọng đại của đất nước (trừ những quyết định bí mật quốc gia). Dựa trên sự phân công trách nhiệm rõ ràng đó, Đảng thực hiện việc kiểm soát quyền lực nhà nước và phát huy vai trò của Nhà nước là một nội dung quan trọng trong tổ chức và hoạt động quyền lực ở nước ta.
- Kiểm soát quyền lực nhà nước giữa nhân dân - chủ thể tối cao và duy nhất của quyền lực nhà nước, đối với Nhà nước - chủ thể quản lý. Đây là mối quan hệ kiểm soát quyền lực của người chủ đối với Nhà nước. Thực tiễn chỉ ra rằng, chỉ có phân định một cách thực chất, giao quyền một cách rõ ràng những nhiệm vụ quyền hạn gì cho Nhà nước, còn những gì nhân dân thực thi quyền lực nhà nước một cách trực tiếp hoặc thông qua tổ chức chính trị, xã hội, nghề nghiệp của mình, thì nhân dân mới thực hiện được quyền kiểm soát quyền lực nhà nước có hiệu quả. Đồng thời, xây dựng một cơ chế giám sát hữu hiệu để nhân dân kiểm soát được quyền lực nhà nước đã giao, đã ủy quyền cho Nhà nước, đặc biệt là hoàn thiện và cụ thể hóa cơ chế nhân dân thực hiện được quyền bãi nhiệm và miễn nhiệm những người do mình bầu ra khi họ không còn xứng đáng (đã được Hiến pháp quy định nhưng trong thực tiễn, nhân dân chưa thực hiện được).
- Kiểm soát quyền lực bên trong tổ chức quyền lực nhà nước (giữa các thành tố cấu thành quyền lực nhà nước: giữa lập pháp, hành pháp và tư pháp và giữa quyền lực nhà nước ở trung ương và địa phương). Đây là mối quan hệ kiểm soát quyền lực trong tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước. Chỉ trên cơ sở phân công một cách đúng đắn, hợp lý, minh bạch, rõ ràng giữa ba quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp để cho các quyền này có điều kiện thực hiện đầy đủ và đúng đắn ý nguyện của nhân dân đã được ghi nhận thành các quy định của Hiến pháp và các đạo luật; đồng thời, phân cấp, phân quyền giữa quyền lực nhà nước ở trung ương và ở địa phương một cách phù hợp, mới thực hiện được việc kiểm soát quyền lực bên trong bộ máy nhà nước. Theo kinh nghiệm tổ chức quyền lực nhà nước ở các nhà nước đương đại, kiểm soát quyền lực nhà nước là yếu tố thể hiện tính pháp quyền và dân chủ của một bộ máy nhà nước, là nhân tố góp phần làm nên sự giàu có của một quốc gia. Với vai trò to lớn như vậy, việc kiểm soát quyền lực nhà nước bên trong tổ chức quyền lực nhà nước là một nội dung quan trọng không thể thiếu trong xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN ở nước ta. Tiếp tục phân công, phân nhiệm một cách rạch ròi, hợp lý, khoa học nhiệm vụ và quyền hạn của mỗi quyền, tăng cường kiểm soát lẫn nhau trong thực thi quyền lực nhà nước giữa các quyền và phối hợp chặt chẽ giữa ba quyền trên cơ sở nhiệm vụ quyền hạn được giao, là một công việc phải được tiến hành thường xuyên trong quá trình xây dựng và hoàn thiện bộ máy nhà nước.
GS,TS. Trần Ngọc Đường - Văn phòng Quốc hội
http://www.nclp.org.vn
(1 và 2) Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XI. Nxb. Chính trị Quốc gia. H., 2011, trang 85.
(3) JonMills. Luận về tự do, Nxb, Chính trị Quốc gia, H., 2005, tr 131.
(4) Ngân hàng Thế giới (1998), Nhà nước trong một thế giới chuyển đổi, H., 1998, tr. 126.
(5) John Mills. Sđd, tr13
(6) Hobbes. Leviathan, Harmondsworth, Penguin, 1968, p 161.
Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước ở nước ta
8/3/2016 8:55' Gửi bài này In bài này
TCCS - Kiểm soát quyền lực nhà nước ở nước ta là một vấn đề mới. Do đó, xây dựng cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước, một mặt, bảo đảm phòng, chống sự lạm dụng quyền lực nhà nước có hiệu lực, hiệu quả; mặt khác, bảo đảm tính năng động, sáng tạo, mềm dẻo cần phải có để tiến hành các công việc nhà nước.
Quá trình nhận thức về cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước trong thời kỳ đổi mới
Trước thời kỳ đổi mới, trong các văn kiện chính thức của Đảng và Nhà nước ta chưa có thuật ngữ “kiểm soát quyền lực nhà nước”. Tuy nhiên, trong Hiến pháp và các luật về tổ chức bộ máy nhà nước, cũng đã hình thành những quy định có nội dung kiểm soát quyền lực nhà nước. Ví dụ, Quốc hội có quyền hạn, “giám sát việc thi hành Hiến pháp” (khoản 3, Điều 50 Hiến pháp năm 1959); “thực hiện quyền giám sát tối cao việc tuân theo Hiến pháp và pháp luật” (khoản 3, Điều 83 Hiến pháp năm 1980). Hội đồng Nhà nước “giám sát công tác của Hội đồng Bộ trưởng, Tòa án Nhân dân tối cao và Viện trưởng Viện Kiểm sát nhân dân tối cao” (khoản 7, Điều 100 Hiến pháp năm 1980); “giám sát và hướng dẫn hoạt động của hội đồng nhân dân các cấp” (khoản 9, Điều 100 Hiến pháp năm 1980). Viện Kiểm sát nhân dân tối cao “kiểm sát việc tuân theo pháp luật của các bộ và các cơ quan khác thuộc Hội đồng Bộ trưởng, các cơ quan chính quyền địa phương, tổ chức xã hội và các đơn vị vũ trang nhân dân...” (Điều 138 Hiến pháp năm 1980). Mặc dù Hiến pháp có những quy định nói trên, nhưng vì tổ chức quyền lực nhà nước theo nguyên tắc tập quyền xã hội chủ nghĩa nên quyền lực nhà nước chưa được phân công một cách minh bạch và do đó, cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước chưa có cơ sở ra đời. Như vậy, cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước chưa được hình thành theo đúng nghĩa của nó, là nhằm bảo đảm việc thực hiện quyền lực nhà nước theo giới hạn của Hiến pháp được nhân dân giao cho.
Trong thời kỳ đổi mới, nhận thức về kiểm soát quyền lực nhà nước của Đảng và Nhà nước ta đã từng bước có sự phát triển về chất. Trước hết, trong các văn kiện của Đảng và Nhà nước, việc thừa nhận Nhà nước ta là nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa là bước đột phá về nhận thức để từng bước chuyển từ tổ chức quyền lực nhà nước theo nguyên tắc tập quyền xã hội chủ nghĩa sang tổ chức quyền lực nhà nước theo nguyên tắc phân công quyền lực nhà nước của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Theo nguyên tắc tập quyền xã hội chủ nghĩa, mặc dù quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân nhưng nhân dân không thực hiện được quyền lực nhà nước của mình bằng các hình thức dân chủ trực tiếp, mà phải thông qua Quốc hội và hội đồng nhân dân các cấp. Vì thế, nhân dân không được thừa nhận là chủ thể cao nhất của quyền lập hiến, mà Quốc hội được Hiến pháp xác định là cơ quan duy nhất có quyền lập hiến và lập pháp. Do đó, Hiến pháp không phải là phương tiện pháp lý cao nhất để nhân dân giao quyền, ủy quyền (quyền lực nhà nước) của mình cho Quốc hội, Chính phủ, Tòa án Nhân dân tối cao và các cơ quan nhà nước khác. Theo đó, Hiến pháp không được quan niệm là một phương tiện pháp lý cao nhất để giới hạn quyền lực nhà nước, bắt buộc Nhà nước phải hoạt động trong giới hạn của Hiến pháp.
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (năm 1991) đã đề ra một nguyên tắc mới về tổ chức quyền lực nhà nước trong việc xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở nước ta là: “Nhà nước Việt Nam thống nhất ba quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp với sự phân công rành mạch ba quyền”. Tuy trong nguyên tắc này chưa có yếu tố kiểm soát quyền lực nhà nước, nhưng đây là bước đổi mới rất cơ bản trong tư duy về “xây dựng nhà nước pháp quyền Việt Nam của dân, do dân, vì dân” mà Đại hội VII của Đảng đã khẳng định. Xây dựng nhà nước pháp quyền trở thành một chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước, có tầm chiến lược, bao gồm toàn bộ tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước. Theo đó, năm 2001, Nhà nước ta đã tiến hành sửa đổi một số điều của Hiến pháp năm 1992 về tổ chức bộ máy nhà nước để thể chế hóa một số quan điểm, đường lối của Đảng ta về xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, và khẳng định: “Nhà nước ta là nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công và phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp”. Lần đầu tiên, thuật ngữ “Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa” và nguyên tắc “phân công, phối hợp...” được trang trọng ghi nhận trong Hiến pháp nước ta. Đây chính là nền tảng để tất yếu đi đến nhận thức phải kiểm soát quyền lực nhà nước tại Đại hội X và Đại hội XI của Đảng. Văn kiện Đại hội X, trong mục “Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa” đã đề cập đến vấn đề “xây dựng, hoàn thiện cơ chế kiểm tra, giám sát tính hợp hiến, hợp pháp trong hoạt động và quyết định của các cơ quan công quyền”, trong đó đề cập sâu về vấn đề “xây dựng cơ chế phán quyết về những vi phạm Hiến pháp trong hoạt động lập pháp, hành pháp và tư pháp”. Có thể coi đây là một nhận thức mới, một sự thay đổi về chất trong tư duy lý luận. “Tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân” mà các bản Hiến pháp trước đây thừa nhận và khẳng định thì đến đây mới thực sự có sự nhận thức đầy đủ và nhất quán. Bởi, không thừa nhận quyền lập hiến là quyền lực gốc, quyền lực thiết lập nên quyền lập pháp, quyền hành pháp và quyền tư pháp; quyền lập hiến cao hơn quyền lập pháp, quyền hành pháp, quyền tư pháp thì không thể thừa nhận theo đúng nghĩa “Tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân” và không thể có cơ sở để hình thành cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước một cách đầy đủ và đúng đắn.
Từ nhận thức mới về kiểm soát quyền lực nhà nước được ghi nhận ở Văn kiện Đại hội X của Đảng, Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) đã đưa vào nguyên tắc tổ chức và hoạt động của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam một yếu tố mới, đó là kiểm soát quyền lực nhà nước. Có thể nói, lần đầu tiên trong văn kiện của Đảng ta đã ghi nhận một nguyên tắc cơ bản về tổ chức và hoạt động của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, chứa đựng đầy đủ các giá trị mới về chất so với nguyên tắc tổ chức quyền lực nhà nước trong nhà nước tập quyền xã hội chủ nghĩa. Đó là nguyên tắc: Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp và kiểm soát giữa các cơ quan trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp. Thể chế hóa nguyên tắc này, Hiến pháp năm 2013 đã trang trọng tuyên bố ở Điều 2 rằng: “1- Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân; 2- Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam do nhân dân làm chủ; tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức; 3- Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp”.
Như vậy, nhận thức về kiểm soát quyền lực nhà nước từ mô hình tập quyền xã hội chủ nghĩa, không xem kiểm soát quyền lực nhà nước là một tất yếu khách quan, đến việc thừa nhận nhà nước pháp quyền mà trong đó, kiểm soát quyền lực nhà nước như một yếu tố cấu thành không thể thiếu trong tổ chức và hoạt động của nhà nước phải trải qua một quá trình 20 năm. Đó là quá trình kế thừa và phát triển tư duy, đấu tranh với quan điểm và thói quen của mô hình tập quyền xã hội chủ nghĩa, bởi sức ỳ của mô hình này đã tồn tại nhiều thập niên, ăn sâu, bám rễ chắc vào tư duy của nhiều người mà không thể thay đổi nhanh chóng được. Từ khởi xướng chủ trương cải cách bộ máy nhà nước một cách mạnh mẽ tại Đại hội VI của Đảng (năm 1986) đến Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (năm 1991) thừa nhận nhà nước Việt Nam thống nhất ba quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp với sự phân công rành mạch ba quyền đó; rồi đến việc thừa nhận “Nhà nước ta... là nhà nước pháp quyền của dân, do dân và vì dân”, vận hành theo nguyên tắc căn bản “quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp” là cả một quá trình. Xét về thời gian, quá trình này tuy dài, nhưng đó là sự vận động tất yếu của nhận thức với sự thay đổi và nâng cao từng bước qua các kỳ đại hội Đảng.
Thực tiễn vận hành của cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước trong thời kỳ đổi mới
Từ sự chuyển biến và thay đổi về nhận thức lý luận nói trên, cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước cũng từng bước ra đời và được vận hành trong thực tiễn, với những biểu hiện cụ thể như sau:
Một là, hoạt động giám sát tối cao của Quốc hội và hoạt động giám sát của các cơ quan của Quốc hội và đại biểu Quốc hội được tăng cường hơn trước đây. So với Hiến pháp năm 1959 và Hiến pháp năm 1980, có thể thấy, Hiến pháp năm 1992 và Hiến pháp năm 1992 sửa đổi năm 2001 đã trao cho Quốc hội nhiều hình thức thực hiện quyền giám sát nhất - từ xem xét báo cáo công tác của Chủ tịch nước, Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Chính phủ, Tòa án Nhân dân tối cao, Viện Kiểm sát nhân dân tối cao, xem xét văn bản quy phạm pháp luật của Chủ tịch nước, Thủ tướng Chính phủ, Tòa án Nhân dân tối cao, Viện Kiểm sát nhân dân tối cao có dấu hiệu trái Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội, đến xem xét việc trả lời chất vấn của Chủ tịch nước, Chủ tịch Quốc hội, Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng và các thành viên khác của Chính phủ, Chánh án Tòa án Nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện Kiểm sát nhân dân tối cao và thành lập Ủy ban lâm thời để điều tra về một vấn đề nhất định và xem xét báo cáo kết quả điều tra của Ủy ban (Điều 7 Luật Hoạt động giám sát của Quốc hội năm 2003). Đến Hiến pháp năm 1992 sửa đổi năm 2001 đã bổ sung thêm hình thức “bỏ phiếu tín nhiệm” đối với các chức danh do Quốc hội bầu và phê chuẩn. Quốc hội không những giám sát hoạt động mà còn giám sát các văn bản quy phạm pháp luật của các cơ quan và cá nhân do Quốc hội thành lập và bầu ra. Như vậy, Quốc hội được xem là một thiết chế quan trọng nhất trong cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước. Thực tiễn những năm qua cho thấy, công tác giám sát tối cao của Quốc hội, giám sát của Hội đồng Dân tộc và các Ủy ban của Quốc hội, các đoàn đại biểu Quốc hội, đặc biệt là hoạt động chất vấn tại nghị trường, được tăng cường, và nhìn chung, được nhân dân đồng tình, ủng hộ.
Hai là, trong bộ máy hành pháp, công tác thanh tra, kiểm tra phục vụ quản lý nhà nước cũng được tăng cường, góp phần vào quản lý nhà nước và đấu tranh phòng, chống tham nhũng.
Ba là, báo chí và các phương tiện thông tin đại chúng bước đầu góp phần vào kiểm soát quyền lực nhà nước, với tư cách là một thành tố cấu thành cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước ở bên ngoài bộ máy nhà nước.
Tuy nhiên, cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước cũng còn những tồn tại chủ yếu như sau:
Về nhận thức, thói quen truyền thống của mô hình tổ chức quyền lực nhà nước theo nguyên tắc tập quyền xã hội chủ nghĩa được tuyệt đối hóa, trở thành sức ỳ, cản trở việc thực hiện những tư duy, nhận thức mới. Vì thế, cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước, xét về phương diện nhận thức, còn nhiều vấn đề thiếu nhất quán, mâu thuẫn với nhau. Ví dụ, Hiến pháp năm 2013 thừa nhận nhân dân là chủ thể của quyền lập hiến, là người “xây dựng, thi hành và bảo vệ Hiến pháp” (Lời nói đầu), nhưng chưa ghi nhận cơ chế tài phán các vi phạm Hiến pháp trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp, như văn kiện của Đảng đã chỉ ra. Do đó, hoạt động lập pháp của Quốc hội chưa có cơ chế kiểm soát. Có thể nói, nhiều vấn đề rất mới, rất phù hợp với quan điểm xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa mà Đảng ta đã đề ra, như “Phân công, phối hợp và kiểm soát trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp”... chưa có được nhận thức hoàn toàn thống nhất, nhất quán và sâu sắc trong các đạo luật, nhất là các đạo luật về tổ chức bộ máy nhà nước ban hành sau khi Hiến pháp năm 2013 có hiệu lực.
Về thực tiễn, cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước ở nước ta hiện nay, kể cả sau khi có Hiến pháp năm 2013 cũng chưa hoàn thiện. Vẫn chưa có thiết chế bảo vệ Hiến pháp độc lập, như Nghị quyết Đại hội X của Đảng đã chỉ ra: “Xây dựng cơ chế phán quyết về những vi phạm Hiến pháp trong hoạt động lập pháp, hành pháp và tư pháp”. Theo đó, hoạt động lập pháp của Quốc hội vẫn nằm ngoài cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước.
Thanh tra, kiểm tra trong bộ máy hành pháp là phương tiện chủ yếu phục vụ cho quản lý nhà nước, được xem là một thiết chế độc lập thực hành kiểm soát quyền lực nhà nước, nhưng trong thực tế, Thanh tra Chính phủ và thanh tra của các cơ quan quản lý nhà nước là những thiết chế phụ thuộc vào thủ trưởng quản lý, phục vụ cho quản lý nhà nước. Vì thế, thanh tra, kiểm tra trong bộ máy quản lý nhà nước không phải là chủ thể và là phương tiện kiểm soát quyền lực nhà nước theo đúng nghĩa.
Việc bỏ chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật đối với các bộ, cơ quan ngang bộ, chính quyền địa phương và các tập đoàn kinh tế nhà nước của viện kiểm sát nhân dân để chuyển cho các cơ quan dân cử và cơ quan thanh tra, kiểm tra trong bộ máy hành pháp sau khi sửa đổi Hiến pháp năm 1992 vào năm 2001 dường như đã làm cho việc kiểm soát quyền lực nhà nước không được tăng cường, nhiều biểu hiện tiêu cực, tham nhũng phát hiện và xử lý chậm, không kịp thời.
Đối với nội bộ Đảng, hệ thống ủy ban kiểm tra thực chất cũng làm nhiệm vụ kiểm soát quyền lực nhà nước thông qua việc kiểm tra các cán bộ, đảng viên trong bộ máy nhà nước. Nhưng ủy ban kiểm tra của các tổ chức đảng lại chỉ hoạt động khi có khiếu nại, tố cáo, nên thiếu chủ động và không mang tính toàn diện của kiểm soát quyền lực nhà nước.
Các phương tiện thông tin đại chúng có vai trò quan trọng trong việc góp phần kiểm soát quyền lực nhà nước, nhưng chưa được phát huy một cách đầy đủ.
Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước trong tình hình mới
Thứ nhất, Hiến pháp năm 2013 đã khẳng định chủ thể kiểm soát quyền lực nhà nước là nhân dân. Điều 2 Hiến pháp năm 2013 khẳng định, bản chất của Nhà nước ta là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Nhân dân là người làm chủ Nhà nước. Do đó, nhân dân là chủ thể kiểm soát quyền lực nhà nước của mình. Đây là một đòi hỏi tất yếu nảy sinh từ nhu cầu chính đáng và tự nhiên của người chủ. Bởi, nếu không kiểm soát được quyền lực nhà nước thì quyền lực nhà nước sẽ bị tha hóa, nhân dân là chủ thể giao quyền, ủy quyền (quyền lực nhà nước) của mình cho Nhà nước sẽ bị mất quyền, bị lạm quyền từ phía Nhà nước.
Từ quan điểm nói trên, trong mối quan hệ với kiểm soát quyền lực nhà nước, nhiều nhận thức mới đã được thể hiện xuyên suốt trong bản Hiến pháp năm 2013. Đó là, Hiến pháp năm 2013 đã xác định nhân dân là chủ thể của quyền lập hiến; Quốc hội không còn là thiết chế duy nhất có quyền lập hiến như quy định của Hiến pháp năm 1992. Vì thế, Hiến pháp năm 2013 đã đặt nền móng hiến định cho sự ra đời một cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước từ bên ngoài, tức là từ phía nhân dân. Thể hiện điều đó, Điều 6 Hiến pháp năm 2013 quy định, ngoài việc thực hiện quyền lực nhà nước bằng dân chủ đại diện (thông qua Quốc hội, hội đồng nhân dân và các cơ quan khác của Nhà nước), nhân dân còn thực hiện quyền lực nhà nước bằng các hình thức dân chủ trực tiếp, như bầu cử và bãi nhiệm (Điều 7); công dân có quyền biểu quyết khi Nhà nước trưng cầu ý dân (Điều 29); công dân có quyền tham gia quản lý nhà nước và xã hội, tham gia thảo luận và kiến nghị với cơ quan nhà nước,... (Điều 28); Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là cơ sở chính trị của chính quyền nhân dân... giám sát và phản biện xã hội đối với hoạt động của cơ quan nhà nước, đại biểu dân cử và cán bộ, công chức, viên chức (Điều 9); Công đoàn Việt Nam... tham gia kiểm tra, thanh tra, giám sát hoạt động của cơ quan nhà nước (Điều 10). Như vậy, Hiến pháp năm 2013 đã đặt cơ sở cho việc hình thành một cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước từ phía nhân dân bằng các hình thức dân chủ trực tiếp. Với các quy định nền tảng này, cần phải xây dựng cơ chế pháp lý nhân dân kiểm soát quyền lực nhà nước bằng các hình thức dân chủ trực tiếp (hay còn gọi là cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước từ bên ngoài).
Thứ hai, nói đến kiểm soát quyền lực nhà nước, điều quan trọng trước tiên là tổ chức bộ máy nhà nước phải được phân công, phân nhiệm một cách đúng đắn, mạch lạc giữa ba quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp. Có phân công, phân nhiệm mới có cơ sở để kiểm soát quyền lực nhà nước. Nhân dân là chủ thể của quyền lập hiến, thì đồng thời nhân dân cũng là chủ thể phân công quyền lực nhà nước, chứ không phải Quốc hội là chủ thể phân công quyền lực nhà nước như trước đây. Theo nhận thức đó, Hiến pháp năm 2013 đã có một bước tiến mới trong việc phân công quyền lực nhà nước.
Lần đầu tiên trong lịch sử lập hiến nước ta, Hiến pháp năm 1992 đã quy định quyền lực nhà nước được cấu thành từ ba quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp (Điều 2). Nhưng Hiến pháp năm 1992 chưa chỉ ra được một cách rõ ràng cơ quan nào là cơ quan lập pháp, cơ quan nào là cơ quan hành pháp và cơ quan nào là cơ quan tư pháp. Hiến pháp năm 2013 đã khắc phục được nhược điểm đó bằng việc quy định Quốc hội là cơ quan thực hiện quyền lập pháp, Chính phủ là cơ quan thực hiện quyền hành pháp và tòa án nhân dân là cơ quan thực hiện quyền tư pháp. Việc thừa nhận các cơ quan khác nhau thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp là một đổi mới quan trọng so với mô hình tập quyền xã hội chủ nghĩa trước đây. Nó tạo điều kiện để quy định nhiệm vụ, quyền hạn một cách đúng đắn, mạch lạc giữa các cơ quan Quốc hội, Chính phủ và tòa án nhân dân trong việc thực hiện quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp. Đây chính là cơ sở để kiểm soát quyền lực nhà nước và nhân dân có căn cứ để nhận xét, đánh giá hiệu lực và hiệu quả thực hiện quyền lực nhà nước của mỗi quyền; đồng thời khắc phục được sự trùng lắp, dựa dẫm, ỷ lại hoặc không rõ trách nhiệm trong tổ chức thực hiện quyền lực nhà nước của mô hình tập quyền xã hội chủ nghĩa trước đây và xây dựng cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước bên trong bộ máy nhà nước. Tuy nhiên, cơ chế phân công, phối hợp và kiểm soát quyền lực nhà nước ở các cấp chưa được chế định rõ. Trên thực tế, tổ chức bộ máy nhà nước và cơ chế hoạt động của các thiết chế cơ bản trong bộ máy pháp quyền xã hội chủ nghĩa, như Quốc hội, Chủ tịch nước, Chính phủ, hệ thống tư pháp còn những điểm chưa thực sự hợp lý, hiệu lực, hiệu quả. Vì vậy, cần tiếp tục xây dựng và hoàn thiện cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước giữa các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp (tức là cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước bên trong bộ máy nhà nước), bảo đảm các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp đều được kiểm soát.
Thứ ba, Hiến pháp năm 2013 đã tạo lập cơ sở hiến định để hình thành cơ chế bảo vệ Hiến pháp do luật định (Điều 119); đồng thời giao cho “Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội, Chủ tịch nước, Chính phủ, tòa án nhân dân, viện kiểm sát nhân dân, các cơ quan khác của Nhà nước có trách nhiệm bảo vệ Hiến pháp”. Như vậy, Hiến pháp năm 2013 tuy chưa hình thành cơ chế bảo vệ Hiến pháp chuyên trách, nhưng với quy định của Điều 119 đã tạo cơ sở hiến định để xây dựng một cơ chế bảo vệ Hiến pháp do luật định. Theo đó, cần tiếp tục nghiên cứu xây dựng cơ chế bảo vệ Hiến pháp do luật định để đưa vào tổ chức thực hiện trong thời gian tới.
*
* *
Vấn đề cơ bản của kiểm soát quyền lực nhà nước là làm cho bộ máy nhà nước vừa có khả năng kiểm soát được xã hội, vừa không kém phần quan trọng là buộc Nhà nước phải tự kiểm soát được chính mình. Theo đó, cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước phải là một tổng thể bao gồm: cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước từ bên ngoài do các chủ thể không phải là Nhà nước thực hiện; cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước bên trong do các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp kiểm soát lẫn nhau; và cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước một cách độc lập do Hiến pháp và luật quy định./.
Trần Ngọc ĐườngGS, TS, nguyên Phó Chủ nhiệm Văn phòng Quốc hội
27/05/2017 23:37
Đưa nhanh Nghị quyết Đại hội XII của Đảng vào cuộc sống
Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã đánh giá: “Một điểm sáng nổi bật của năm 2016 là Ủy ban Kiểm tra Trung ương đã vào cuộc rất tích cực, quyết liệt; công tác kiểm tra, giám sát của Đảng ở Trung ương đã diễn ra khá sôi động, có nhiều việc làm và làm được nhiều việc, có kết quả rõ rệt, được dư luận đồng tình, đánh giá cao, tạo ra một làn gió mới, niềm tin mới. Cái mới của thời gian gần đây là chủ động tiến hành kiểm tra dấu hiệu vi phạm khá nhiều, kết hợp kiểm tra thường xuyên với kiểm tra vi phạm; làm vụ nào ra vụ ấy, làm bài bản, khoa học, làm đến nơi, đến chốn; làm kỷ luật đảng trước không chờ kết luận của các cơ quan nhà nước, thực sự cầu thị, lắng nghe ý kiến của nhân dân, báo chí, công luận...”. Cùng với đó, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng cũng thẳng thắn chỉ rõ: “Công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật đảng vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu, nhiệm vụ trong tình hình hiện nay; không ít địa phương, cơ quan, đơn vị tiến hành kiểm tra, giám sát còn chiếu lệ, hình thức, chưa quyết liệt; hiệu lực, hiệu quả thấp, chưa đủ sức răn đe; đấu tranh với những vi phạm vẫn còn tình trạng nể nang, né tránh, đùn đẩy, không nghiêm túc”.
Hiến pháp năm 2013 đã hiến định Đảng Cộng sản Việt Nam là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội. Trong tình hình hiện nay, công cuộc đổi mới, hội nhập một mặt tạo ra nhân tố tích cực cho xây dựng, củng cố chính quyền nhân dân, mặt khác cũng còn nhiều kẽ hở cho tiêu cực, tham nhũng, “lợi ích nhóm” hoành hành làm xuất hiện những cán bộ thoái hóa, biến chất, lạm dụng quyền lực, biến quyền lực thành ý chí cá nhân để trục lợi. Vì vậy, kiểm tra, giám sát trở thành một phương thức rất quan trọng để Đảng kiểm soát quyền lực nhà nước, thực hiện chức năng lãnh đạo, ngăn chặn xu hướng chệch hướng của quyền lực. Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã nhấn mạnh sự cần thiết phải “nhốt quyền lực vào chiếc khung cơ chế, pháp luật” tại hội nghị tiếp xúc cử tri Hà Nội tháng 10-2016.
Công tác kiểm soát quyền lực nhà nước của Đảng là việc kiểm tra, giám sát đối với các tổ chức đảng và đảng viên hoạt động trong hệ thống các cơ quan nhà nước từ Trung ương đến địa phương; trọng tâm là kiểm tra, giám sát đảng viên giữ chức vụ đứng đầu các cấp chính quyền và các cơ quan lập pháp, hành pháp, tư pháp trong việc chấp hành Cương lĩnh, Điều lệ, nghị quyết, chỉ thị, quy định của Đảng; chính sách, pháp luật của Nhà nước. Hiện nay, Đảng thực hiện kiểm soát quyền lực nhà nước qua hai phương thức chủ yếu: Thông qua các các cơ quan lãnh đạo, cơ quan chức năng của Đảng (Ủy ban Kiểm tra và các ban đảng các cấp) trực tiếp hoặc gián tiếp kiểm tra, giám sát tổ chức đảng và đảng viên hoạt động trong các cơ quan của bộ máy nhà nước và thông qua việc Đảng thực hiện vai trò lãnh đạo, xây dựng đường lối, chủ trương, chính sách, nghị quyết... để định hướng xây dựng cơ chế và tổ chức cho các chủ thể khác nhau trong xã hội thực hiện việc kiểm soát quyền lực.
Theo Báo cáo của Ủy ban Kiểm tra Trung ương, năm 2016, tổ chức đảng và ủy ban kiểm tra các cấp đã tiến hành kiểm tra gần 10 vạn tổ chức đảng và hơn 4 vạn đảng viên; giám sát hơn 3 vạn tổ chức đảng và hơn 10 vạn đảng viên; thi hành kỷ luật gần 150 tổ chức đảng và hơn 12 nghìn đảng viên. Những hoạt động kiểm tra, giám sát tích cực từ Trung ương đến cơ sở bước đầu đã giải quyết công việc tồn đọng từ nhiệm kỳ trước, trong đó có những việc rất phức tạp; góp phần tích cực vào công tác phòng, chống tham nhũng; bước đầu đem lại niềm tin trong nhân dân và đem lại những bài học kinh nghiệm quý trong đổi mới công tác kiểm soát quyền lực của Đảng. Tuy nhiên, tính hình thức, chiếu lệ, chưa quyết liệt, thiếu hiệu quả, nể nang, né tránh, đùn đẩy trong công tác kiểm soát quyền lực vẫn còn nhiều. Nhiều cấp ủy Đảng vẫn bị động trong công tác kiểm soát quyền lực nhà nước; chỉ tiến hành kiểm tra, giám sát khi có đơn thư tố cáo hoặc có kết quả điều tra, phản ánh trên các phương tiện truyền thông đại chúng. Từ thực tiễn hơn một năm qua, để đổi mới, tăng cường công tác kiểm soát quyền lực nhà nước theo đúng tinh thần Nghị quyết Đại hội XII của Đảng về “chú trọng kiểm tra, giám sát người đứng đầu” và “tăng cường kiểm tra, giám sát đối với các ban cán sự đảng, đảng đoàn, các tổ chức đảng ở các cơ quan nhà nước”, công tác kiểm tra, giám sát cần chú ý đến những vấn đề sau đây:
Một là: Phải làm có trọng điểm. Phải thực sự đi vào những vấn đề, lĩnh vực nhạy cảm, phức tạp, dễ nảy sinh tiêu cực hoặc những vấn đề đang gây xôn xao dư luận, gây bức xúc ở địa phương, cơ quan, đơn vị. Theo Báo cáo của Ủy ban Kiểm tra Trung ương, ở các địa phương, từ cấp huyện đến cấp cơ sở, có nhiều cấp ủy hiện vẫn chưa xác định được vụ việc trọng tâm, trọng điểm, điển hình. Từ kinh nghiệm của Trung ương trong việc xác định các vụ việc nghiêm trọng, vụ việc gây bức xúc của dư luận để chỉ đạo xử lý cho thấy, việc xác định đúng trọng tâm, trọng điểm của công tác kiểm tra, giám sát quyền lực nhà nước là đặc biệt quan trọng; kiểm tra, giám sát đúng một vụ việc trọng điểm chẳng những tạo nên bước đột phá mà còn là tạo ra động lực, rút ra rất nhiều kinh nghiệm thúc đẩy công tác kiểm tra, giám sát phát triển.
Hai là: Phải công khai. Dân chủ, thận trọng, chặt chẽ là rất cần thiết trong công tác kiểm tra, giám sát, nhưng điều quan trọng nhất của công tác này là phải công khai. Công khai chính là phương thuốc quý nhất để “trị bệnh cứu người”, để cả tập thể, cá nhân được kiểm tra, giám sát tâm phục, khẩu phục mà còn tạo ra niềm tin trong nhân dân, chống lại các luận điệu xuyên tạc, bịa đặt của các thế lực thù địch và chống được các “nhóm lợi ích” trong các cơ quan nhà nước thường lợi dụng các đợt kiểm tra, giám sát của tổ chức đảng để trục lợi, bao che, tiếp tay cho các tổ chức, cá nhân sai phạm. Thực tế, việc Ủy ban Kiểm tra Trung ương công khai báo cáo về các dấu hiệu vi phạm, khuyết điểm của đồng chí Đinh La Thăng vừa qua là một ví dụ. Công khai khẳng định tính chính nghĩa của công tác kiểm tra, giám sát. Công khai khẳng định quan điểm của Đảng về “không có vùng cấm trong công tác kiểm tra, giám sát” là sự thật. Minh bạch, công khai chính là dấu hiệu nổi bật để đánh giá sự đổi mới của công tác kiểm tra, giám sát.
Ba là: Phải huy động sức mạnh của nhân dân vào cuộc. Không có sự vào cuộc của đông đảo nhân dân thì không thể nào kiểm soát được quyền lực nhà nước. Trong thời gian qua, kết quả công tác kiểm soát quyền lực của Đảng đã và đang đem lại niềm tin trong nhân dân, nhân dân đang hồ hởi, phấn khởi, đồng tình, ủng hộ. Đây là thời cơ để mỗi cấp ủy, ủy ban kiểm tra các cấp cần đẩy mạnh, làm quyết liệt hơn, nêu cao tinh thần cách mạng tiến công vì sự nghiệp cách mạng của Đảng, của dân tộc.
Bốn là: Thường xuyên tổng kết, rút kinh nghiệm để bổ sung, hoàn thiện các cơ chế, quy chế, quy định của Đảng trong công tác kiểm tra, giám sát quyền lực Nhà nước. Thực tiễn thời gian qua, còn có nhiều vụ việc không thể giải quyết dứt điểm, không thể "làm đến cùng" bởi hệ thống chủ trương, quan điểm, quy chế, quy định của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước chưa hoàn thiện. Nhiều cấp ủy hiện chưa coi trọng vấn đề này, làm cho "chiếc dây kinh nghiệm" của Đảng cứ "rút hoài không hết".
Năm là: Phải coi trọng xây dựng ủy ban kiểm tra các cấp trong sạch, vững mạnh và cán bộ kiểm tra có đủ tài, đức thực hiện nhiệm vụ. Công tác kiểm soát quyền lực hiện là lĩnh vực phức tạp, nhạy cảm bậc nhất hiện nay. Những người “bị kiểm soát” là những người có quyền lực, những cán bộ có chức, có quyền nhưng rơi vào thoái hóa, biến chất thường có rất nhiều thủ đoạn tinh vi để che giấu khuyết điểm, qua mặt cơ quan kiểm tra. Nếu cán bộ kiểm tra, cơ quan kiểm tra không có năng lực thì dẫu có tiến hành kiểm tra nhiều lần cũng không phát hiện được sai phạm, khuyết điểm. Cán bộ kiểm tra, cơ quan kiểm tra luôn phải đối mặt với những mua chuộc, cám dỗ. Vì vậy, hơn lúc nào hết, xây dựng cơ quan kiểm tra “vừa hồng, vừa chuyên”, cán bộ kiểm tra “có tài, có đức” là vấn đề quyết định đối với việc đổi mới, nâng cao chất lượng công tác kiểm tra, giám sát của Đảng trong kiểm soát quyền lực hiện nay.
HỒNG HẢI
Từ những phân tích trên cho thấy: Kiểm soát quyền lực nhà nước là toàn bộ những hoạt động xem xét, theo dõi, đánh giá, những biện pháp mà thông qua đó có thể ngăn ngừa, loại bỏ những nguy cơ, những việc làm sai trái của cơ quan, nhân viên nhà nước trong việc tổ chức và thực hiện quyền lực nhà nước, bảo đảm cho quyền lực nhà nước được tổ chức và thực hiện đúng mục đích mong muốn và đạt được hiệu quả cao.
V.I. Lê-nin về kiểm soát quyền lực trong Đảng
16:12' 22/4/2014
Đảng Cộng sản (B) Nga là đảng cầm quyền sau Cách mạng tháng Mười (1917). Đảng do V.I.Lê-nin đứng đầu là đội tiên phong chính trị, có tổ chức chặt chẽ nhất, cách mạng nhất, giác ngộ nhất của giai cấp công nhân lúc bấy giờ; là hạt nhân lãnh đạo hệ thống chuyên chính vô sản, hoạt động theo nguyên tắc tập trung dân chủ; là một khối thống nhất về chính trị, tư tưởng, lấy phê bình và tự phê bình làm quy luật phát triển. Với cách thức tổ chức và hoạt động như vậy, trong nội bộ đảng tất yếu phải có các hoạt động mang tính quyền lực của các tổ chức đảng và của nhiều đảng viên.
Các hoạt động mang tính quyền lực của các tổ chức đảng, các đảng viên giữ những chức vụ nhất định là do các tổ chức hay đảng viên đó được tập thể đảng viên bầu, “ủy nhiệm” ra. Các hoạt động đó được thể hiện qua việc chỉ đạo, quản lý, điều hành trong đảng. Các đảng viên không có chức vụ, quyền hạn được giao, kể cả trong đảng và bộ máy nhà nước thì chỉ có hoạt động lãnh đạo - hoạt động không gắn với việc sử dụng quyền lực.
Hoạt động lãnh đạo và hoạt động quản lý hay chỉ đạo là khác nhau. Hoạt động quản lý hay chỉ đạo là gắn với việc sử dụng quyền lực, còn hoạt động lãnh đạo thì không. V.I.Lê-nin đã từng nhắc nhở những đảng viên cộng sản không biết cách lãnh đạo rằng, với tư cách là một chủ thể thực hiện chức năng lãnh đạo thì không được “ra những chỉ thị và sắc lệnh”(1), tức không được hoạt động theo kiểu như chỉ đạo, quản lý.
Tương tự, các đảng viên giữ những chức vụ nhất định trong tổ chức bộ máy nhà nước Nga lúc bấy giờ cũng có hai hoạt động: hoạt động lãnh đạo và hoạt động quản lý hay chỉ đạo, điều hành, điều khiển. Hoạt động lãnh đạo của các đảng viên này có nghĩa là họ phải “giúp đỡ những tầng lớp nhân dân”, và do đó hoạt động này cũng không gắn với việc sử dụng quyền lực. V.I.Lê-nin đã xác định rất rõ: “Người cán bộ ấy phải nhớ rằng anh ta không những là người tuyên truyền bằng lời nói, không những phải giúp đỡ những tầng lớp nhân dân mê muội nhất; đó là nhiệm vụ chủ yếu của anh ta và không làm như vậy anh ta sẽ không còn là người cán bộ của đảng, không làm như vậy anh ta không thể tự coi mình là người cộng sản được. Nhưng ngoài ra, anh ta phải là người đại diện Chính quyền Xô-viết… người đại diện cho đảng nắm chính quyền hiện đang thông qua một bộ phận giai cấp vô sản mà điều khiển toàn bộ nước Nga”(2).
Kiểm soát quyền lực trong đảng theo quan điểm của V.I.Lê-nin, tức là kiểm soát quyền lực của các tổ chức đảng, đồng thời kiểm soát quyền lực các cá nhân đảng viên có chức vụ trong các tổ chức đảng, bộ máy nhà nước. Theo V.I.Lê-nin, việc kiểm soát này chính là để thực hiện dân chủ - một yêu cầu cực kỳ quan trọng của nguyên tắc tập trung dân chủ nội bộ đảng. Khi đảng cộng sản đã cầm quyền, việc kiểm soát quyền lực đối với các tổ chức đảng, đặc biệt đối với các cá nhân đảng viên giữ các chức vụ trong bộ máy nhà nước lại càng đặt ra hơn.
Để kiểm soát quyền lực trong đảng, V.I.Lê-nin thực hiện hai cách thức chủ yếu: một là, thực hiện phê bình và tự phê bình nghiêm khắc trong đảng; hai là, thực hiện công tác kiểm tra trong đảng. Trong đó, V.I.Lê-nin tập trung nhiều hơn vào công tác kiểm tra, nhất là vào thời kỳ thực hiện Chính sách kinh tế mới (NEP). V.I.Lê-nin nhận thấy rằng, sau ba năm cầm quyền (1917-1920), quyền lực trong đảng ngày càng có xu hướng tha hóa. Sự tha hóa này diễn ra không chỉ ở các tổ chức, cá nhân trong đảng, mà đáng lưu ý hơn là đối với các cá nhân đảng viên giữ các chức vụ trong bộ máy nhà nước. Đây là điều làm cho V.I.Lê-nin trăn trở, đi sâu tìm kiếm các biện pháp khắc phục. Công tác kiểm tra của Đảng lúc bấy giờ ở Nga đã được V.I.Lê-nin bàn tới nhiều, coi đây là công tác quan trọng của Đảng nhằm khắc phục căn bệnh độc đoán, chuyên quyền trong hoạt động của các tổ chức, cá nhân đảng viên - nguyên nhân hàng đầu dẫn đến thiếu dân chủ trong đảng.
Trong công tác kiểm tra, V.I.Lê-nin lưu ý trước hết đến cách thức kiểm tra, kiểm soát từ bên ngoài đối với đảng, tức kiểm tra, kiểm soát từ nhân dân, những người ngoài đảng. V.I.Lê-nin đã yêu cầu các tổ chức đảng cần phải có các cách thức lôi cuốn những người ngoài đảng thực hiện việc kiểm tra, kiểm soát đảng. V.I.Lê-nin viết: “Cần phải cấp tốc đem toàn lực ra khắc phục thiếu sót đó... cần phải duy trì sự kiểm soát và sự lãnh đạo của những người cộng sản. Mặt khác, những người ngoài đảng cũng phải kiểm soát các đảng viên; muốn vậy cần phải lôi kéo những nhóm công nhân, nông dân ngoài đảng, đã được thử thách về phương diện trung thực của mình, vào Bộ Dân ủy thanh tra công nông, và không kể họ ở chức vụ nào, lôi cuốn họ tham gia một cách không chính thức vào việc kiểm tra và nhận xét công tác”(3).
Trong điều kiện đảng cầm quyền, khi nhiều đảng viên thực hiện vai trò lãnh đạo, quản lý trong bộ máy nhà nước, thì việc kiểm soát các đảng viên đó thông qua công tác kiểm tra của đảng cũng chính là một hình thức kiểm soát quyền lực nhà nước. Trong điều kiện đó, V.I.Lê-nin yêu cầu cần phải hợp nhất hai cơ quan kiểm tra của đảng và thanh tra nhà nước làm một. Theo V.I.Lê-nin, việc hợp nhất hai cơ quan đó để thực hiện việc kiểm tra, kiểm soát sẽ có hiệu quả hơn. Ngoài ra, theo V.I.Lê-nin, rất cần thiết phải có sự phê bình của nhân dân đối với cơ quan, người đảng viên, người có quyền lực trong cơ quan nhà nước, bằng cách thông qua các cuộc “báo cáo” thực hiện công việc của họ trước nhân dân. V.I.Lê-nin viết: “... không chỉ thường xuyên triệu tập các cuộc họp toàn thể cho quần chúng công nông, mà còn phải thường xuyên tổ chức những cuộc báo cáo công tác của tất cả các cán bộ đảm nhiệm mọi chức vụ trước quần chúng công nông. Những cuộc báo cáo này phải tiến hành ít nhất mỗi tháng một lần để quần chúng công nhân và nông dân ngoài đảng có điều kiện phê bình các cơ quan xô-viết và công tác của các cơ quan đó. Không phải chỉ có các đảng viên cộng sản mà tất cả những người có chức trách ở mọi cương vị quan trọng, trước hết là trong các cơ quan lương thực và các cơ quan thuộc hệ thống Hội đồng kinh tế quốc dân, đều phải tiến hành những báo cáo như vậy"(4).
Công tác kiểm tra là vô cùng phức tạp, có nhiều khó khăn, nhất là sẽ không hiệu quả nếu cán bộ kiểm tra không có phẩm chất đạo đức, thiếu uy tín. Do vậy, theo V.I.Lê-nin: “... muốn biết cách điều khiển công tác kiểm tra, thì cần phải có một người có uy tín đứng đầu, nếu không chúng ta sẽ sa lầy và sẽ chìm ngập trong những mưu toan nhỏ nhặt”(5).
Trong kiểm soát quyền lực nội bộ đảng, đặc biệt là kiểm soát quyền lực của các cơ quan ban chấp hành, V.I.Lê-nin đã đề xuất thiết lập các cơ quan Ủy ban Kiểm tra của Đảng tiến tới cần phải có vị trí độc lập với cơ quan ban chấp hành. Theo đó, cơ quan Ủy ban Kiểm tra cần phải được các đại hội đảng bầu ra thay cho cách bầu ra từ các ban chấp hành. Từ đây, vị trí của các Ủy ban Kiểm tra sẽ tương đương như các ban chấp hành. Ở Trung ương, khi họp Ban Chấp hành Trung ương - cơ quan quyền lực cao nhất của Đảng giữa hai kỳ Đại hội - đều phải có Ủy ban Kiểm tra tham dự với tư cách như một thành viên trong các cuộc họp “liên tịch”(6).
V.I.Lê-nin cho rằng, khi thực hiện điều này mới có thể kiểm soát được quyền lực tối cao của Đảng. Bởi khi đã có vị trí độc lập, Ủy ban Kiểm tra thậm chí có thể kiểm tra mọi văn bản của Bộ Chính trị. Các cuộc họp liên tịch giữa Ban Chấp hành và Ủy ban Kiểm tra là cơ sở quan trọng để việc chất vấn trong đảng phát huy được tác dụng. Chất vấn trong đảng theo hình thức đó cũng mới có thể đảm bảo được dân chủ thực chất nội bộ đảng.
Vào năm 1923, sau hai năm thực hiện đổi mới, V.I.Lê-nin đã đề xuất: “những ủy viên Ban kiểm tra trung ương có nhiệm vụ tham dự, với một số lượng nhất định, vào mỗi phiên họp của Bộ Chính trị, sẽ phải là một nhóm cố kết, nó, “không được vị nể cá nhân” phải giữ gìn sao cho không một quyền uy nào của Tổng Bí thư hay là của một ủy viên nào trong Ban Chấp hành Trung ương có thể ngăn cản mình chất vấn, kiểm tra các hồ sơ, và nói chung, nắm được tình hình hết sức rõ ràng và xử lý mọi việc hết sức đúng đắn”(7).
Quan điểm của V.I.Lê-nin về kiểm soát quyền lực trong đảng nêu trên có ý nghĩa vô cùng quan trọng đối với công tác xây dựng đảng. Thực hiện đổi mới, nâng cao vai trò của cơ quan kiểm tra đảng là một giải pháp thiết thực để tăng cường dân chủ, chống tha hóa quyền lực trong đảng, trong điều kiện một đảng duy nhất cầm quyền ở nước ta hiện nay.
............................................................................................
(1), (5), (7). V.I.Lê-nin: Toàn tập, t. 45, NXB Tiến bộ, Mát-xcơ-va, 1977, tr. 114-115, 146, 440.
(2). V.I.Lênin, Sđd, t. 41, tr. 181.
(3), (4), (6). V.I.Lê-nin, Sđd, t. 43, tr. 336, 305, 129-130.
[1] Quyền lực trong bài này là viết tắt của quyền lực chính trị, quyền lực nhà nước
[2] Đảng cộng sản Việt Nam: Cương lĩnh xây dựng đất nước thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hôi (Bổ sung, phát triển 2011)
[3] Đảng cộng sản Việt Nam: Cương lĩnh xây dựng đất nước thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hôi (Bổ sung, phát triển 2011)
[4] Bàn về Tinh thần pháp luật, Nxb LLCT, H, 2006, tr. 106
Người gửi / điện thoại
Đánh giá