CHÍNH TRỊ HỌC
GS.TSKH Phan Xuân Sơn -
Bài đã đăng trên Tạp chí Cộng sản (điện tử). 23 – 4 - 2007
Mục lục bài viết
Quyết định của Nguyễn Tất Thành sang phương Tây tìm đường cứu nước cho ta một bài học lớn: Giá phải trả cho sự sống còn của một sự nghiệp, một dân tộc được định ở quyết tâm vượt lên, vượt qua chính mình.
Có thể nói, Nguyễn Ái Quốc đã biết đi từ dân tộc đến nhân loại rồi trở về với dân tộc, điều đó đối với một dân tộc lạc hậu là con dường ngắn nhất và duy nhất để tự giải phóng và đạt đến văn minh. Các dân tộc văn minh, các nước tiên tiến đều đã đi con đường đó. Muốn làm được điều đó phải vượt qua chính bản thân mình. Quyết tâm vượt qua, vượt lên chính mình ở Nguyễn Tất Thành lúc bấy giờ thể hiện ở 3 điểm sau:
- Thứ nhất: Vượt qua được phương thức chống giặc cứu nước cổ truyền.
Chúng ta biết rằng Bác Hồ kính yêu của chúng ta sinh trưởng trong một gia đình nhà Nho, sớm thông tỏ đạo Thánh hiền. Nhưng Nguyễn Tất Thành không tìm con đường cứu nước theo các tín điều Nho giáo. Như vậy Người đã vượt qua tư tưởng Tôn Quân, mà đây là án ngữ lớn nhất trên con đường cứu nước, phục hưng dân tộc lức bấy giờ. Anh phê phán tất cả các phong trào yêu nước “nặng cốt cách phong kiến” dù cốt cách đó có chiều dày hàng ngàn năm.
- Thứ hai: Nguyễn Tất Thành đã vượt qua cả lập trường dân chủ tư sản Việt Nam,lập trường dân chủ tư sản ở một nước thuộc địa nửa phong kiến, và Nguyễn Tất Thành đã phê phán tính không triệt để của nó. Nguyễn Tất Thành sớm tiếp xúc với “Khế ước xã hội” của Rút Xô, Tân văn, Tân thư của các nhà cách mạng Trung Quốc, Chứng kiến các phong trào yêu nước trên lập trường dân chủ tư sản (Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh). Có thể nói đây là lập trường dân chủ tư sản ở một nước thuộc địa, nó chưa có một lực lượng xã hội nào đảm bảo. Vì thế nó cũng chưa đủ sức tập hợp lực lượng để chống lại chủ nghĩa thực dân, cuối cùng cũng bị chủ nghĩa thực dân Pháp đàn áp.
- Thứ ba: Nguyễn Tất Thành muốn vươn tới đỉnh cao văn minh và trí tuệ nhân loại, muốn học hỏi nhiều hơn những gì mình có, mặc dù những điều đã có là truyền thống dân tộc. Nguyễn Tất Thành không muốn tìm câu trả lời có sẵn. Nguyễn Tất Thành muốn đi ra nước ngoài, xem nước Pháp và các nước khác. Anh nói rằng sau khi xem các nước tổ chức và cai trị như thế nào, anh sẽ trở về giúp đồng bào mình. Nguyễn Tất Thành muốn xem trực tiếp tận cội nguồn cái sức mạnh của các nước thực dân (mẫu quốc). Từ cái logic ấy Nguyễn Tất Thành đi rất nhiều nước: Pháp, Châu Phi, Anh, Mỹ, Italia, Thuỵ Sĩ, Đức, Toà thánh Vaticăng, Liên Xô, Trung Quốc, Thái Lan…Đi nhiều nơi, chiêm nghiệm nhiều, lao động để sống để học tập để hoạt động cách mạng. Nhờ đi đến phương Tây và nhiều nước khác Nguyễn Ái Quốc tích luỹ được rất nhiều bài học, mà ở quê nhà dù đọc thiên kinh vạn quyển cũng không thể nào tìm ra được.
Muốn làm được điều đó, con người phải có Tâm, có Tầm, có Trí, có Tài.
Tâm là lòng yêu nước thương dân tha thiết. Lòng yêu nước chân thành sẽ mách bảo người cách mạng nên hành động như thế nào.
Tầm là phải nhìn xa, trong rộng, thấy được xu thế toàn cục: thời đại, thế giới, trong nước; thấy được lợi ích của toàn dân tộc và lợi ích của một giai cấp, một nhóm, một người; phải có tinh thần học hỏi, phải vứt bỏ các thiên kiến cũ. Có Tầm chúng ta sẽ có được sự chỉ dẫn của tầm vóc nhân loại.
Trí là tri thức, trí tuệ. Có trí nghĩa là chúng ta sẽ thâu tóm và được được dắt dẫn bởi tri thức của nhân dân của một dân tộc tinh anh, cần cù sáng tạo và anh hùng, học hỏi được tinh hoa văn hoá nhân loại, nhờ đó nâng cao thêm vị thế dân tộc chúng ta, làm giàu thêm cho văn minh, văn hiến dân tộc chúng ta.
Tài là năng lực huy động, tổ chức, bài binh bố trận, linh hoạt, sáng tạo, biến không thành có, biến khó thành dễ; vượt qua thử thách, cam go...để đưa sự nghiệp đến thành công.
2.Trong thời đại của mình, phải có bản lĩnh Nguyễn Ái Quốc mới tiếp thu được văn minh phương Tây, và văn minh phương Tây đã đem lại những giá trị mới mang tính cách mạng và khoa học trong tư tưởng cứu nước của Hồ Chí Minh.
Nguyễn Ái Quốc đến phương Tây từ Việt Nam, từ một nước nhỏ ở phương Đông. Vì thế nên, cho đến những năm 18,19, 20 của thế ký XX, theo nhiều tài liệu, Nguyễn Ái Quốc “là một người yêu nước quyết tâm hi sinh tất cảc vì Tổ quốc; nhưng Nguyễn rất ít hiểu về chính trị, không biết thế nào là Công hội,, thế nào là bãi công và thế nào là chính đảng”[1]
Nguyễn Ái Quốc học tập được rất nhiều từ văn minh phương Tây, từ văn hoá Châu Âu và văn hoá Pháp, nhưng cái mà Nguyễn khao khát học tập nhất là cách tổ chức xã hội, cách cai trị như thế nào, nói cách khác Nguyễn muốn học nhiều điều, nhất là học về chính trị. Văn minh phương Tây đem lại cho Nguyễn Ái Quốc những giá trị mà ở phương Đông không có. Đó là những khái niệm như: Tự do, bình đẳng, bác ái, nhân quyền, dân quyền, pháp quyền, dân chủ, cách mạng xã hội, đặc biệt là chủ nghĩa cộng sản và con đường đấu tranh giải phóng dân tộc theo Luận cương của Lênin…Trong thực tiễn, Nguyễn Ái Quốc học tập được rất nhiều về các mô hình tổ chức đời sống nhà nước và đời sống xã hội theo hình thức chính thể cộng hoà dân chủ. Lịch sử sau này cho thấy, nguyễn Ái Quốc đã thấm nhuần rất sâu sắc những tư tưởng này. Ví dụ: Trong Tuyên ngôn độc lập Người viết: mọi người sinh ra đều bình đẳng, quyền được sống, quyền tự do và mưu cầu hạnh phúc. Tạo hoá đã ban cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được. Những giá trị mà theo Hồ Chí Minh là quý nhất như “Độc lập” “Tự do”,…là cái trời ban, nghĩa là “quyền tự nhiên”. Những giá trị này, không có trong các chế độ phong kiến chuyên chế phương Đông, ở các nước thuộc địa.
Có thể nói rằng, những giá trị này, ngày nay là những giá trị phổ biến của VĂN MINH chính trị nhân loại, phản ánh những quyền cơ bản của con người, của các cộng đồng và các dân tộc. Tất cả mọi người trên thế giới đều có thể phấn đấu hi sinh để hướng tới, để đạt tới. Bất kỳ một lực lượng cách mạng nào, một nhà nước nào muốn tập hợp nhân dân, muốn đoàn kết nhân dân, trước hết phải thực hiện những quyền cơ bản đó. Điều này đối với nước ta hiện nay càng có ý nghĩa to lớn, khi chúng ta đang xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân.
3- Biết đặt quyền lợi dân tộc lên trên hết là động lực giúp Hồ Chí Minh vượt qua mọi khó khăn thử thách trong cuộc đời hoạt động cách mạng và là nền tảng cho đại đoàn kết toàn dân tộc, đảm bảo cho mọi thành công của cách mạng nước ta.
Trong suốt cuộc đời cách mạng của Hồ Chí Minh, Người luôn luôn đặt lợi ích dân tộc lên trên hết. Từ việc đi ra nước ngoài tìm đường cứu nước, học hỏi kinh nghiệm cách mạng Mỹ, Pháp, Tàu,..đến việc tin theo Lênin, tin theo Quốc tế thứ 3. Khi ủng hộ Cách mạng tháng Mười và Lênin, Nguyễn Ái Quốc chưa đọc một tác phẩm nào của Lênin. Chính chủ nghĩa yêu nước chứ chưa phải là chủ nghĩa quốc tế đã giúp Nguyễn Ái Quốc đến với Quốc tế 3, ủng hộ nước Nga Xô viết. Người nói: “ Lúc bấy giờ, tôi ủng hộ Cách mạng tháng Mười chỉ là theo cảm tính tự nhiên”[2] Sau này hoạt động trong phong trào cộng sản và công nhân quốc tê, đặc biệt là những năm ở Matxcơva trong Quốc tế 3, Chủ nghĩa yêu nước, đặt lợi ích dân tộc lên trên hết, vẫn là tư tưởng chi phối xuyên suốt trong tư tưởng Hồ Chí Minh. Điều đó làm cho nhiều người theo chủ nghĩa quốc tế hư vô, máy móc, giáo điều không thể hiểu, thậm chí phê phán Người. Theo quan điểm này, thì phải đặt lợi ích của quốc tế cao hơn lợi ích dân tộc. Trong cuộc đấu tranh này, Nguyễn Ái Quốc là một người rất khoa học rất sáng tạo. Người nêu một tấm gương về tính kiên trì thuyết phục, chứng minh tính đúng đắn bằng thực tiễn cách mạng chứ không phải bằng tranh cãi kinh viện, hay tầm chương trích cú theo chủ nghĩa giáo điều.
Cũng cần nhấn mạnh rằng, cho đến nay, không phải ai cũng hiểu được đầy đủ quan điểm này của Nguyễn Ái Quốc. Nguyễn Ái Quốc cho rằng: Trong điều kiện của Việt Nam, “chủ nghĩa dân tộc là động lực lớn của đất nước” [3]. Chính nó đã dạy cho mọi tầng lớp nhân dân Việt Nam vươn lên đấu tranh, cạnh tranh, tinh thần học hỏi. Trong cuộc đấu tranh chống thực dân. Nguyễn Ái Quốc nhìn thấy, nếu không phục hưng chủ nghĩa dân tộc, vốn bị chế độ phong kiến hàng ngàn năm làm cho bạc nhược, vốn bị chủ nghĩa thực dân đầu độc, mặt khác, khi chủ nghĩa dân tộc cũ gắn với chủ nghĩa tôn quân (quân quyền) chưa được giải phóng, chưa được thay thế bởi chủ nghĩa dân tộc mới gắn với dân quyền, khi điều kiện khách quan chưa cho phép bất kỳ một chủ nghĩa quốc tế nào thâm nhập được vào đời sống tinh thần tư tưởng của nhân dân, thì sẽ không huy động được dân tộc. Vì vậy, Nguyễn Ái Quốc cho rằng cần phải nhân danh Quốc tế Cộng sản để “phát động chủ nghĩa dân tộc bản xứ”. Người nói: “ Giờ đây, người ta sẽ không thể làm gì được cho người An Nam nếu không dựa trên động lực vĩ đại, và duy nhất của đời sống xã hội của họ”[4].
Nguyễn Ái Quốc hy vọng đến một ngày nào đó khi xu thế cách mạng vô sản trở thành phổ biến trên thế giới thì chủ nghĩa dân tộc này sẽ biến thành chủ nghĩa quốc tế. Điều này tuy không được nhiều người trong Quôc tế III ủng hộ, nhưng thực tiễn chứng minh rằng Nguyễn Ái Quốc đã đúng. Với sự phân tích như vậy, Nguyễn Ái Quốc luôn luôn coi trọng và phục hưng chủ nghĩa yêu nước Việt Nam trong điều kiện đấu tranh giải phóng dân tộc thế kỷ XX. Tư tưởng đó đã trở thành quan điểm chiến lược trong tư duy chính trị của Người: Đoàn kết, đại đoàn kết, thành công đại thành công.
4.Với một quyết tâm không gì lay chuyển nổi, Hồ Chí Minh áp dụng những tư tưởng tiến bộ và cách mạng của thế giới vào quá trình đấu tranh giành độc lập dân tộc và xây dựng chính quyền mới ở nước ta.
Ngày 19-8-1947, trong thư gửi đồng bào nhân dịp kỷ niệm cách mạng tháng Tám. Hồ Chủ tịch viết:
“Noi gương Cách mạng 1776 của Mỹ, Cách mạng Tháng Tám tranh tự chủ chống ngoại xâm
Cũng như Cách mạng 1789 của Pháp, Cách mạng Tháng Tám thực hành lý tưởng: Bình đẳng, Tự do, Bác ái.
Theo gót cách mạng 1911 của Tàu, Cách mạng Tháng Tám thực hiện chủ nghĩa: Dân tộc, dân quyền, dân sinh.”[5]
Người viết nhiều về cách mạng Nga và noi gương cách mạng Nga là đã đem lợi ích đến cho nhân dân lao động mà đa số là công, nông. Nhờ tổng kết kinh nghiệm của nhiều cuộc cách mạng, Hồ Chí Minh đã xác định chiến lược, sách lược của cách mạng Việt Nam một cách đúng đắn. Đặc biệt, Hồ Chí Minh rất sáng tạo trong xác định lực lượng của cách mạng: Toàn thể nhân dân Việt Nam, không phân biệt giai cấp, dòng giống, giàu nghèo...chỉ trừ bọn đã ra mặt phản động, bọn Việt gian, bán nước.
TRONG ĐẤU TRANH GIẢI PHÓNG DÂN TỘC
KHI GIÀNH ĐƯỢC ĐỘC LẬP RỒI
Bao nhiêu lợi ích đều vì dân.
Bao nhiêu quyền hạn đều của dân.
Công việc đổi mới, xây dựng là trách nhiệm của dân.
Chính quyền từ xã đến Chính phủ trung ương do dân cử ra.
Đoàn thể từ Trung ương đến xã do dân tổ chức nên.
Nói tóm lại, quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân”[6].
Trong chế độ dân chủ của chúng ta, bộ máy nhà nước, công chức nhà nước chỉ là công bộc, là đầy tớ của dân.
Nhân dân trong tư tưởng Hồ Chí Minh rất rõ rệt, đầy đủ và nhất quán, kế thừa được tư tưởng “dân là gốc” của tư tưởng chính trị Việt Nam truyền thống và tính thể chế, tính pháp quyền trong tư tưởng chính trị phương Tây để đảm bảo quyền lực của nhân dân.
Người viết: “Trong bầu trời không có gì quý bằng nhân dân, dân là quý nhất, là quan trọng nhất, trong thế giới không có gì mạnh bằng lực lượng đoàn kết của nhân dân”.[7] Nhân dân Việt Nam là “Hai mươi triệu con Lạc cháu Hồng”[8], là tất cả những ai yêu nước thương nòi, nhân dân với những biểu hiện cụ thể của nó, rất khác nhau, như những ngón tay “ngắn” và “dài” nơi một bàn tay. Nhân dân Việt Nam là không phân biệt giai cấp, giàu nghèo, trai giái, già trẻ, dòng giống, tôn giáo, tín ngưỡng. Trong nhân dân, Hồ Chí Minh xác định vai trò “gốc” cách mạng của công nông, lực lượng đông đảo nhất, chịu nhiều áp bức đau khổ nhất.
Khi thành lập Mặt trận Việt Minh, trong “Kính cáo đồng bào” Nguyễn Ái Quốc kêu gọi “toàn dân đoàn kết”. “Toàn dân” ở đây gồm: Các bậc phụ huynh, các bậc hiền huynh chí sĩ, các bạn sĩ, nông, công, thương (thương nhân và các nhà kinh doanh), các bậc phú hào yêu nước, thương nòi, các bạn công, nông, binh, thanh niên, phụ nữ, công chức, tiểu thương. Trong Chương trình Việt Minh, khi nói về phổ thông đầu phiếu, Hồ Chí Minh viết: “Hễ ai là người Việt Nam, vô luận nam nữ từ 18 tuổi trở lên đều có quyền tuyển cử và ứng cử, trừ bọn Việt gian phản quốc.”[9] Trên thực tế, những người ứng cử và trúng cử còn có cả nhà vua, quan lại các cấp của chế độ phong kiến. Riêng đối với giai cấp tư sản dân tộc, mà Hồ Chí Minh gọi là “các nhà tư sản ta”, Hồ Chí Minh cũng có cái nhìn khác với nhiều nhà cách mạng đương thời, đặc biệt khác với kinh nghiệm cách mạng Nga. Người coi tư sản Việt Nam là một bộ phận nhân dân, cũng chịu chung số phận bị áp bức. Trong tuyên ngôn độc lập, khi tố cáo tội ác của bọn thực dân, Người viết: “Chúng không cho các nhà tư sản ta ngóc đầu lên”[10]. Sau này trong thời kỳ đấu tranh bảo vệ chính quyền Việt Nam dân chủ cộng hoà non trẻ, Hồ Chí Minh đánh giá cao những đóng góp của các nhà tư sản ta, đặc biệt là trong tuần lễ Vàng, trong kháng chiến kiến quốc. Vì vậy, khi kêu gọi toàn dân kháng chiến, Người viết: “Cậu bé chăm chỉ học hành trong nhà trường cũng là kháng chiến. Anh dân cày, cày cuốc ngoài đồng ruộng, anh thợ cặm cụi trong nhà máy, chị bán hàng buôn bán ngược xuôi, ông già xách giỏ đi câu cũng là kháng chiến. Các công chức, các nhà báo mải miết trước bàn giấy, cạnh tủ sách cũng là kháng chiến. Các y sinh, khán hộ lăn lộn bên giường bệnh cũng là kháng chiến. Các nhà giàu có đem hết tài lực mở mang xưởng thợ, khai thác ruộng đất cũng là kháng chiến. Đó là toàn dân kháng chiến”[11]
- Cha ông ta nói rất đúng “nước mất, nhà tan”, khi chưa giành được độc lập, thì động lực của khối đại đoàn kết dân tộc là độc lập dân tộc, là phải dân tộc trên hết, Tổ quốc trên hết. Vì thế khi có thời cơ thì phải giành cho được độc lập. Nếu lúc này, không giành được độc lập dân tộc, thì chẳng những dân ta còn chịu mãi kiếp ngựa trâu, mà quyền lợi của bộ phận của giai cấp đến vạn năm cũng không đòi lại được. Trong bài toàn dân kháng chiến, viết 5 – 11 -1945, Hồ Chí Minh nêu rõ: “Nếu quyền lợi dân tộc không còn, quyền lợi và sự nghiệp của cá nhân liệu còn giữ được an toàn không?”
Với tinh thần dân tộc ấy, trong Lời tuyên bố trước Quốc hội ngày 31-10-1946, Hồ Chí Minh nói “Tôi xin tuyên bố trước Quốc hội, trước quốc dân, trước thế giới: Tôi chỉ có một đảng, đảng Việt Nam”[12] khi trả lời các nhà báo nước ngoài (Cứu quốc 21-1-1946), Hồ chí Minh lại nói: “Nếu cần có đảng phái thì sẽ là Đảng dân tộc Việt Nam. Đảng đó sẽ chỉ có một mục đích làm cho dân tộc ta hoàn toàn độc lập. Đảng viên của đảng đó sẽ là tất cả quốc dân Việt Nam, trừ những kẻ phản quốc và những kẻ tham ô ra ngoài”[13]
Những tuyên bố trên của Hồ Chí Minh, hàm chứa những ý nghĩa sâu xa về vị trí, vai trò của đảng cách mạng ở nước ta và tư tưởng đại đoàn kết toàn dân tộc.
Động lực của đại đoàn kết bao giờ cũng là lợi ích vật chất và tinh thần, là lợi ích chung và lợi ích riêng của mỗi một người dân, của các giai cấp các nhóm xã hội. Nếu trước đây, chưa có độc lập lợi ích chung và lợi ích riêng gắn với nhau trong mệnh đề “nước mất nhà tan”. Muốn yên nhà thì trước hết phải cứu nước, giữ lấy nước. Khi nước có độc lập rồi thì động lực của đại đoàn kết toàn dân tộc là “dân giàu nước mạnh”. Muốn nước mạnh thì trước hết dân phải giàu. Lợi ích chung và riêng phải gắn kết với nhau, nhưng vị trí, vai trò, tính chất ưu tiên giữa chung và riêng mỗi giai đoạn mỗi khác.
Ngày nay, lợi ích chung là sự thống nhất toàn vẹn đất nước, là ổn định chính trị xã hội để phát triển, để sớm đưa dân tộc ta thoát khỏi tình trạng kém phát triển, sánh vai với các nước trong khu vực và trên thế giới. Làm sao cho xứng với con cháu của một dân tộc thông minh, sáng tạo, hoà hiếu, cho xứng với non sông gấm vóc mà cha ông đã để lại.
Ngày nay, lợi ích riêng là vô cùng khác nhau, có khi mâu thuẫn đối lập nhau. Để tối đa hoá lợi ích riêng khác nhau đó trong một xã hội văn minh phải thực hành triệt để dân chủ. Dân phải thấy được quyền lợi của mình được phản ánh và bảo đảm trong mọi chủ trương của Đảng, chính sách của Nhà nước, dân được thực sự làm chủ, quyết định vận mệnh của mình, được tham gia vào công việc của nhà nước và xã hội. Dân phải thực hiện đầy đủ các quyền: Quyền sống, quyền tự do, quyền mưu cầu hạnh phúc. Nhân dân sau khi đã uỷ một phần quyền (chứ không phải tất cả) để tổ chức ra nhà nước làm chức năng công quyền, còn lại sẽ được làm tất cả những gì mà pháp luật không cấm. Cũng sẽ xuất hiện những mâu thuẫn xung đột nhất định do sự khác biệt về các lợi ích, do nhà nước và xã hội chưa thể thực hiện triệt để sự công bằng, bình đẳng…Trong những trường hợp như vậy, phải biết gác lại những khác biệt, mặc cảm, định kiến, phải biết lắng nghe, đối thoại…Phải xây dựng sự đồng thuận xã hội. Muốn làm được những điều đó, muốn có đại đoàn kết toàn dân tộc, phải xây dựng một nền kinh tế thị trường, một nhà nước pháp quyền và xã hội công dân. Nghĩa là phải xây dựng nước ta thực sự là một nước dân chủ, như tư tưởng và lý tưởng của Hồ Chí Minh. Điều đó cũng có nghĩa là làm sao cho nhân dân phải hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành. Hồ Chí Minh đã từng nói, nước độc lập rồi mà dân không hưởng tự do, hạnh phúc thì độc lập cũng chẳng có ý nghĩa gì. Như vậy, mục đích cuối cùng của cách mạng là đem lại tự do, hạnh phúc cho nhân dân. Đó là động lực to lớn nhất của đại đoàn kết toàn dân tộc.
- Trước hết đó là chủ nghĩa yêu nước, là tinh thần dân tộc (có lúc Hồ Chí Minh nói chủ nghĩa dân tộc), Đảng phải là đảng của một giai cấp biết “tự mình trở thành dân tộc”. Khi đã trở thành đảng cầm quyền, phải biết lãnh đạo nhà nước thực hiện chức năng xã hội, chức năng công quyền (bảo vệ lợi ích của toàn xã hội) ngày càng tốt hơn và trở thành chức năng chính, còn chức năng giai cấp (lợi ích của giai cấp cầm quyền) ngày càng nhỏ đi và hoà vào chức năng công quyền. Đó là con đường tiến hoá lên chủ nghĩa xã hội. Nghĩa là biết đặt lợi ích của toàn dân tộc lên trên hết, biết xây dựng một xã hội dân chủ pháp quyền. Để cho người dân muốn sống tốt thì được sống tốt, muốn làm ăn thì được làm ăn, muốn học hành thì được học hành, muốn tham gia vào việc nước thì được tham gia... Chỉ như thế đổi mới mới thành công.
- Phải biết vươn tới tầm nhân loại. Hồ Chí Minh đã “đi tìm hình của nước” Việt Nam trong nhân loại, trong những giá trị nhân loại. Vì nước ta là một bộ phận không thể khác của nhân loại. Chính nhờ tầm nhân loại, mà Bác Hồ của chúng ta đã tìm ra cách giải quyết các vấn đề dân tộc theo giá trị và chuẩn mực nhân loại. Người tìm thấy “hình của nước” trong tấm gương nhân loại. Nhờ vậy, Người được nhân loại tiến bộ yêu mến, khâm phục, giúp đỡ. Đó là bài học của đại đoàn kết vì thế nó là bài học của đại thành công.
- Muốn đoàn kết được toàn dân tộc, cán bộ của Đảng và nhà nước phải là hạt nhân của khối đại đoàn kết đó, phải có “Tâm”, có “Tầm”, có “Trí”, có “Tài”, phải nêu gương sáng về đức hi sinh “lo trước thiên hạ vui sau thiên hạ” cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư. Chỉ như thế dân mới tin, mới theo, mới hăng hái gánh vác công việc với Đảng và Nhà nước.
Khi nói về đời sống của Hồ Chủ tịch, cố thủ tướng Phạm Văn Đồng có nói: “Đời sống Hồ Chủ tịch là một đời sống khắc khổ, cần lao và tranh đấu. Người lãnh tụ của một dân tộc mất nước không thể có một đời sống khác”.
Ngày nay, đảng viên, cán bộ, nhất là cán bộ có chức có quyền của một nước nghèo, chậm phát triển, đang đổi mới, phải chọn một lối sống như thế nào để xứng đáng với sự kỳ vọng, sự chờ đợi, tin tưởng của nhân dân. Đó cũng là một câu hỏi lớn đặt ra cho tất cả cán bộ đảng viên.
Chú thích:
[1] Đường Bác Hồ đi cứu nước, Nxb Thanh niên, H, 1975, tr.45.
[2] Đ,d tr.63.
[3] Hồ Chí Minh toàn tập, tập 1. tr.466
[4] Đã dẫn tr. 466
[5] Đã dẫn, tập 5, tr.187
[6] Đã dẫn, tập 5, tr.698
[7] Đã dẫn, tập 7, tr.497 (Thảo xem lại hộ trích dẫn cho chính xác nguồn)
[8] Đã dẫn, tập 3, tr.197
[9] Đã dẫn, tập 3, tr.583
[10] Đã dẫn tập 4, tr. 2
[11] Đã dẫn, tập 4, tr. 84
[12] Đã dẫn , tr.427
[13] Đã dẫn, tr. 162
Người gửi / điện thoại
Đánh giá