CHÍNH TRỊ HỌC
NÂNG CAO SỨC MẠNH CHIẾN ĐẤU CỦA CÁC ĐƠN VỊ CƠ SỞ QUÂN ĐỘI NHÂN DÂN VIỆT NAM HIỆN NAY THEO TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
Đại tá, TS NGUYỄN HỮU LẬP
Mục lục bài viết
NÂNG CAO SỨC MẠNH CHIẾN ĐẤU
CỦA CÁC ĐƠN VỊ CƠ SỞ QUÂN ĐỘI NHÂN DÂN VIỆT NAM
HIỆN NAY THEO TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
Đại tá, TS NGUYỄN HỮU LẬP *
Trên cơ sở khái quát những quan điểm cơ bản và giá trị của tư tưởng Hồ Chí Minh về sức mạnh chiến đấu của Quân đội nhân dân Việt Nam, bài viết sẽ xác định một số giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao sức mạnh chiến đấu của các đơn vị cơ sở trong quân đội ta hiện nay theo tư tưởng của Người. |
Từ khóa: Hồ Chí Minh; Quân đội; Đơn vị cơ sở
Tư tưởng Hồ Chí Minh về sức mạnh chiến đấu của Quân đội nhân dân Việt Nam là hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về các yếu tố cấu thành cùng những biện pháp, cách thức để tạo lập, củng cố, tăng cường các yếu tố đó, nhằm bảo đảm cho quân đội luôn là nòng cốt của bạo lực cách mạng, sẵn sàng nhận và hoàn thành mọi nhiệm vụ mà Đảng, Nhà nước, nhân dân giao phó.
Theo Hồ Chí Minh, sức mạnh chiến đấu của Quân đội nhân dân Việt Nam là sức mạnh tổng hợp của nhiều yếu tố, trong đó nhân tố con người là bộ phận quyết định nhất. Do đó, trong xây dựng quân đội, phải ưu tiên xây dựng con người, “người trước súng sau” (1). Cụ thể hơn, Người còn chỉ rõ, mỗi quân nhân cách mạng phải có một hệ thống các phẩm chất cần thiết để bảo đảm phát huy được vị trí, vai trò của mình. Trong lần về thăm Trường Chính trị trung cấp quân đội, nay là Học viện Chính trị, khi nói chuyện với cán bộ, giáo viên nhà trường, ngày 25-10-1951, Người đã nhấn mạnh: “Nếu anh em tư tưởng vững, chính trị vững, kỹ thuật khá, thân thể khoẻ mạnh thì nhất định thắng. Trái lại, nếu anh em chính trị khá, nhưng quân sự kém, hoặc chính trị quân sự đều khá nhưng thân thể yếu đuối thì cũng không thắng được”(2).
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, bên cạnh nhân tố con người thì vũ khí trang bị, kỹ thuật cũng là một yếu tố không thể thiếu để tạo nên sức mạnh chiến đấu của quân đội. Theo Người, trong chiến tranh, con người là yếu tố quyết định sự thắng thua. Song cần phải thấy rằng, để chiến đấu thì nhất thiết những con người ấy, phải được trang bị vũ khí, phương tiện cần thiết. Thực tế cho thấy, Hồ Chí Minh rất quan tâm đến việc bảo đảm vũ khí, trang bị cho lực lượng vũ trang nói chung, Quân đội nhân dân Việt Nam nói riêng. Ngay sau Cách mạng Tháng tám 1945, với tầm nhìn xa, Người đã trăn trở tìm mọi cách để sản xuất vũ khí và coi đây là hướng cơ bản, lâu dài cho quân đội. Năm 1946, Người đã trực tiếp vận động và đưa về nước một số trí thức Việt kiều từ Pháp, trong đó có Phạm Quang Lễ, người mà sau đó được Bác đổi tên là Trần Đại Nghĩa và giao giữ chức Cục trưởng Cục Quân giới. Sau này, trong một bài viết với tựa đề Điện biên phủ, Người tiếp tục khẳng định: “Đánh giặc, trước hết phải có vũ khí, mà vũ khí đầu tiên của ta là gậy tầm vông. Ta dùng gậy tầm vông để chống lại máy bay, xe tăng, đại bác và tàu chiến của Pháp, Mỹ”(3). Trong kháng chiến chống Mỹ, Người không chỉ thường xuyên quan tâm đến việc tăng cường trang bị vũ khí cho quân đội ta mà còn chỉ ra cách khắc chế vũ khí, trang bị của địch. Điển hình là Người đã chỉ đạo đồng chí Phùng Thế Tài (Tư lệnh Quân chủng Phòng không - Không quân) tìm cách diệt máy bay B52 của quân đội Mỹ.
Bên cạnh nhân tố con người và vũ khí, trang bị, Hồ Chí Minh cũng chỉ rõ vai trò của nghệ thuật quân sự là một trong các yếu tố quan trọng tạo nên sức mạnh chiến đấu của quân đội. Nghệ thuật quân sự là khả năng sử dụng các phương thức tác chiến phù hợp nhằm phát huy được thế mạnh của ta, hạn chế được thế mạnh của đối phương và giành thắng lợi. Thực tế cho thấy, trong quá trình cùng với Đảng ta lãnh đạo sự nghiệp đấu tranh giành độc lập, trước kẻ thù là thực dân pháp và đế quốc Nhật có ưu thế vượt trội về lực lượng quân sự và vũ khí, trang bị, Hồ Chí Minh cho rằng để giành thắng lợi cần phải sử dụng cách đánh du kích. Người chỉ rõ: “Chuyến này chúng ta vũ trang khởi nghĩa đánh Tây - Nhật, chính dùng lối du kích mà đánh. Biết đánh du kích thế nào cũng thắng lợi”(4).
Để các yếu tố cấu thành sức mạnh chiến đấu của quân đội luôn ở trạng thái tốt nhất, Hồ Chí Minh đã chỉ ra một số biện pháp cụ thể để củng cố và tăng cường những yếu tố ấy đó là: luôn luôn giữ vững sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với Quân đội nhân dân Việt Nam. Bởi theo Người: “Quân đội ta có sức mạnh vô địch, vì nó là một quân đội nhân dân do Đảng ta xây dựng, Đảng ta lãnh đạo và giáo dục”(5). Cùng với đó, cần thường xuyên làm tốt công tác dân vận để giữ vững sự đoàn kết quân dân và phát huy vai trò của quần chúng nhân dân trong xây dựng và nâng cao sức mạnh chiến đấu của quân đội. Người chỉ rõ: “Muốn đánh du kích cần phải có dân chúng tham gia và giúp sức. “Du kích như cá, dân chúng như nước. Cá không có nước thì cá chết, du kích không có dân chúng thì du kích chết”. Quân du kích và dân chúng phải mật thiết liên lạc với nhau là vì quân du kích đánh Tây - Nhật để bảo hộ dân chúng, vậy dân chúng phải hết sức ủng hộ quân du kích”(6).
Cùng với việc giữ vững, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng và làm tốt công tác dân vận để phát huy vai trò của nhân dân, một biện pháp quan trọng để xây dựng và nâng cao sức mạnh chiến đấu của quân đội là phải tăng cường công tác giáo dục chính trị, tư tưởng và bảo đảm tính nghiêm minh của kỷ luật quân đội. Người chỉ rõ: “Quân sự mà không có chính trị như cây không có gốc, vô dụng lại có hại”(7). Theo đó, công tác giáo dục chính trị tư tưởng là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu trong xây dựng và nâng cao sức mạnh chiến đấu của quân đội. Mặt khác, hoạt động quân sự không chỉ liên quan đến sự hy sinh xương máu của cán bộ, chiến sĩ, mà còn liên quan đến thành bại của cách mạng. Vì vậy, việc bảo đảm sự nghiêm minh của kỷ luật là yêu cầu quan trọng trong xây dựng và nâng cao sức mạnh chiến đấu của quân đội. Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Quân đội mạnh là nhờ giáo dục khéo, nhờ chính sách đúng và nhờ kỷ luật nghiêm”(8).
Một trong những biện pháp không thể thiếu trong xây dựng và nâng cao sức mạnh chiến đấu của quân đội theo tư tưởng Hồ Chí Minh đó là phải làm tốt công tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ, chăm lo đời sống vật chất, tinh thần và không ngừng nâng cao chất lượng huấn luyện bộ đội. Người đã chỉ rõ: “Phải tăng cường công tác quân sự, trước hết là phải luôn luôn xem trọng việc huấn luyện bộ đội. Phải ra sức bồi dưỡng cán bộ, phải rèn luyện tư tưởng, nâng cao trình độ giác ngộ chính trị, cũng như trình độ chiến thuật và kỹ thuật của cán bộ. Đó là khâu chính trong các thứ công tác”(9).
Tư tưởng Hồ Chí Minh về sức mạnh chiến đấu của Quân đội nhân dân Việt Nam không chỉ là nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho Đảng ta trong sự nghiệp xây dựng quân đội cách mạng, mà còn là mục tiêu phấn đấu và phương châm hành động của mỗi quân nhân trong quân đội. Tư tưởng đó đã bảo đảm cho quân đội ta đi từ không đến có, từ nhỏ đến lớn, từ những đội quân du kích đầu tiên với gậy tầm vông, giáo mác đã dần phát triển thành một quân đội cách mạng, chính quy, với đầy đủ các quân, binh chủng, lực lượng, góp phần quan trọng vào sự nghiệp cách mạng của dân tộc.
Ngày nay, với sự phát triển của khoa học, công nghệ, đặc biệt là sự tác động của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư, sự nghiệp xây dựng Quân đội nhân dân Việt Nam có những yêu cầu mới nhưng những quan điểm của Người về sức mạnh chiến đấu của quân đội vẫn vẹn nguyên giá trị. Do vậy, việc quán triệt, học tập và làm theo tư tưởng Hồ Chí Minh để nâng cao sức mạnh chiến đấu của các đơn vị cơ sở trong quân đội hiện nay là vấn đề có ý nghĩa lý luận và thực tiễn to lớn. Theo đó, cần thực hiện tốt một số nội dung cơ bản sau đây:
Một là, không ngừng nâng cao chất lượng nhân tố con người ở các đơn vị cơ sở đáp ứng đòi hỏi của sự nghiệp xây dựng Quân đội nhân dân Việt Nam cách mạng, chính uy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại. Trước hết cần tập trung nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của các cấp ủy, tổ chức đảng ở đơn vị cơ sở. Kết hợp chặt chẽ giữa củng cố, kiện toàn, nâng cao năng lực lãnh đạo của cấp ủy với củng cố, kiện toàn và nâng cao năng lực quản lý, chỉ huy của đội ngũ cán bộ các cấp. Thường xuyên làm tốt công tác tuyển chọn, đào tạo, bồi dưỡng, đề bạt, bổ nhiệm và sử dụng đội ngũ cán bộ các cấp. Mặt khác, tiếp tục nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác đảng, công tác chính trị trong quân đội. Cụ thể là, cần đổi mới nội dung, hình thức, phương pháp giáo dục chính trị, tư tưởng để mọi quân nhân luôn nhận rõ mối quan hệ giữa chính trị với quân sự; nhận thức đúng vị trí của quân đội trong mối quan hệ với Đảng, Nhà nước và nhân dân; có nhận thức chính trị đúng đắn, lập trường tư tưởng vững vàng, tuyệt đối trung thành với mục tiêu, lý tưởng của Đảng và lợi ích quốc gia, dân tộc; nhận rõ sự phi lý, phản động và phản khoa học của tư tưởng đòi “phi chính trị” hóa quân đội. Tiếp tục khắc phục bệnh thành tích trong huấn luyện; tích cực đổi mới nội dung, hình thức, phương pháp huấn luyện bộ đội theo hướng “cơ bản, thiết thực, vững chắc”, sát thực tế và sát đối tượng tác chiến. Công tác huấn luyện phải bảo đảm cho mỗi quân nhân có phẩm chính trị tốt, có trình độ kỹ, chiến thuật, khả năng làm chủ các vũ khí, trang bị kỹ thuật hiện đại và có sức khỏe tốt đáp ứng yêu cầu của chiến tranh công nghệ cao. Bên cạnh đó, cần tiếp tục nâng cao chất lượng xây dựng chính quy, rèn luyện kỷ luật, không ngừng củng cố sự thống nhất về ý chí và hành động của mỗi đơn vị cơ sở và toàn quân.
Hai là, tiếp tục nâng cao chất lượng, hiệu quả cuộc vận động “quản lý, khai thác vũ khí, trang bị kỹ thuật tốt, bền, an toàn, tiết kiệm và an toàn giao thông”. Theo đó, cần duy trì nghiêm các quy chế, quy định về giữ gìn, bảo quản, khai thác vũ khí, trang bị. Tiếp tục nâng cao ý thức, trách nhiệm và khả năng làm chủ các loại vũ khí, trang bị có trong biên chế của các đơn vị cơ sở. Đặc biệt là các đơn vị thuộc các quân binh chủng có chức năng khai thác, sử dụng các loại vũ khí, trang bị hiện đại, công nghệ cao như: Phòng không - Không quân; Hải quân; Cảnh sát biển; Thông tin liên lạc; Tác chiến không gian mạng…
Ba là, coi trọng việc vận dụng và phát triển nghệ thuật quân sự phù hợp với yêu cầu tác chiến trong môi trường chiến tranh công nghệ cao. Theo đó, cùng với việc huấn luyện bộ đội ở đơn vị cơ sở nắm vững và thuần thục nghệ thuật quân sự truyền thống của dân tộc và quân đội, có khả năng tác chiến độc lập và tác chiến hiệp đồng quân, binh chủng quy mô lớn, cần đẩy mạnh nghiên cứu, phát triển các phương thức tác chiến mới phù hợp với chức năng, nhiệm vụ, địa bàn, đối tượng và vũ khí, trang bị được giao. Phát huy vai trò và khả năng của bộ đội, nhất là đội ngũ cán bộ cấp cơ sở trong việc sáng tạo cách đánh mới góp phần phát triển và làm phong phú thêm nghệ thuật quân sự Việt Nam.
Bốn là, giữ vững, tăng cường mối quan hệ đoàn kết quân dân và phát huy vai trò của nhân dân trong xây dựng quân đội. Đây là một nội dung, biện pháp quan trọng để nâng cao sức mạnh chiến đấu của mỗi đơn vị cơ sở. Do vậy, cần tiếp tục nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác vận động quần chúng, xây dựng địa bàn đóng quân an toàn và vững mạnh về chính trị. Thực hiện tốt công tác dân vận và nhân rộng mô hình “Dân vận khéo” góp phần nâng cao nhận thức của nhân dân trên địa bàn đóng quân, đặc biệt là các địa bàn vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo, chú ý tuyên truyền nâng cao nhận thức về các chủ trương, đường lối, quan điểm quân sự, quốc phòng của Đảng; về âm mưu, thủ đoạn của đối tượng tác chiến và trách nhiệm trong xây dựng và nâng cao sức mạnh chiến đấu của quân đội.
Năm là, bảo đảm tốt đời sống vật chất, tinh thần của cán bộ, chiến sĩ phù hợp với sự phát triển kinh tế, xã hội của đất nước. Theo đó, cần tiếp tục tăng cường sự quan tâm, chăm lo đời sống vật chất, tinh thần của cán bộ, chiến sĩ ở đơn vị cơ sở trong điều kiện phát triển nền kinh tế thị trường, định hướng xã hội chủ nghĩa. Cấp ủy, chỉ huy các cấp tạo điều kiện để đội ngũ cán bộ giải quyết hài hòa mối quan hệ giữa mục tiêu, lý tưởng với cuộc sống đời thường, giữa nhiệm vụ chung của đơn vị với nhiệm của cá nhân, gia đình./.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
(1) Trương Khánh Châu (1994), Đặc trưng công nghệ vũ khí trang bị kỹ thuật của các lực lượng vũ trang nhân dân Việt Nam qua các thời kỳ cách mạng, Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội.
(2), (7), (8) Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 7, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tr.219. 217. 483.
(3) Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 11, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.397.
(4), (6) Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 3, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tr.499. 500.
(5) Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 14, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tr.435.
(9) Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 8, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tr.29.
Người gửi / điện thoại
Đánh giá