CHÍNH TRỊ HỌC
XÂY DỰNG CHUẨN MỰC ĐẠO ĐỨC CÁCH MẠNG CỦA CÁN BỘ, ĐẢNG VIÊN HIỆN NAY THEO TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
PGS.TS Nguyễn Hữu Lập
Chủ nhiệm khoa Hồ Chí Minh học, Học viện Chính trị
Mục lục bài viết
XÂY DỰNG CHUẨN MỰC ĐẠO ĐỨC CÁCH MẠNG CỦA CÁN BỘ, ĐẢNG VIÊN HIỆN NAY THEO TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
PGS.TS Nguyễn Hữu Lập
Chủ nhiệm khoa Hồ Chí Minh học, Học viện Chính trị*
Tóm tắt: Hồ Chí Minh không chỉ là tấm gương đạo đức sáng ngời để cán bộ, đảng viên và nhân dân ta học tập, noi theo, mà Người còn là một nhà đạo đức học hiện thực vô cùng sâu sắc và gần gũi. Sự thống nhất giữa tư tưởng và tấm gương đạo đức của Người đã trở thành cơ sở lý luận để Đảng ta lãnh đạo, chỉ đạo xây dựng nền đạo đức mới, con người mới phù hợp với từng thời kỳ cách mạng. Hiện nay, hơn lúc nào hết, yêu cầu xây dựng và bảo vệ Tổ quốc đòi hỏi nền đạo đức mới phải tiếp tục có sự phát triển. Do vậy, việc xây dựng chuẩn mực mới về đạo đức cách mạng cho đội ngũ cán bộ, đảng viên hiện nay theo tư tưởng Hồ Chí Minh là vấn đề có ý nghĩa lý luận và thực tiễn to lớn.
Từ khóa: Hồ Chí Minh; chuẩn mực; đạo đức
Đạo đức là những giá trị xã hội được số đông thừa nhận, chia sẻ, giữ gìn, bồi đắp và sử dụng để điều chỉnh hành vi của con người trong các quan hệ xã hội. Đạo đức xuất hiện cùng với các quan hệ xã hội của con người và trở thành nền tảng cho các quy phạm pháp luật khi xã hội loài người có phân hóa giai cấp. Đạo đức bao gồm hai bộ phận chính là ý thức đạo đức và hành vi đạo đức. Đây là hai mặt của một vấn đề, có mối quan hệ biện chứng, chặt chẽ, không tách rời nhau, là điều kiện, tiền đề của nhau. Bởi vì, ý thức đạo đức là điều kiện để có hành vi đạo đức và ngược lại, hành vi đạo đức sẽ làm tăng tính đúng đắn, giá trị, ý nghĩa của ý thức đạo đức. Ý thức đạo đức bao gồm nhiều yếu tố, trong đó chuẩn mực đạo đức là nội dung quan trọng nhất. Đây là những giá trị được thừa nhận với vai trò là mực thước để làm chuẩn cho mọi hành động của con người. Trên cơ sở nắm vững các chuẩn mực đạo đức, mỗi thành viên trong xã hội sẽ tự lựa chọn và xác định đúng sai, tốt xấu, những hành vi nào nên làm và những hành vi nào không nên làm.
Chuẩn mực đạo đức là những giá trị cộng đồng và là cái bên ngoài con người, nhưng sau khi được lựa chọn và quyết tâm làm theo, nó sẽ dần dần trở thành các phẩm chất, nhân cách của con người và đặc trưng của một tổ chức, bản sắc của một quốc gia, dân tộc. Chuẩn mực đạo đức có nhiều cấp độ giá trị, ngoài những giá trị chung mang tính nhân loại, còn có những giá trị riêng do điều kiện địa lý, khí hậu, phong tục, tập quán của mỗi cộng đồng người quy định. Mặt khác, chuẩn mực đạo đức cũng mang tính lịch sử, có những giá trị ở thời điểm này là chuẩn mực, nhưng ở thời điểm khác nó chỉ là cốt lõi cho một chuẩn mực mới. Với tính cách là một bộ phận của ý thức đạo đức, thuộc về ý thức xã hội, nên chuẩn mực đạo đức là cái phản ánh tồn tại xã hội và nó cần được bổ sung, phát triển để phù hợp với sự biến đổi của tồn tại xã hội. Chuẩn mực đạo đức phản ánh mong muốn của số đông, nhưng nó không phải là sản phẩm chủ quan, duy ý chí. Bởi lẽ, các giá trị chỉ trở thành chuẩn mực đạo đức khi nó được khái quát nên từ phẩm chất, nhân cách thực của một cá nhân hay tổ chức nhất định và chứng tỏ khả năng hiện thực hóa, nhân rộng trong thực tiễn. Trong xã hội có giai cấp, chuẩn mực đạo đức phản ánh tính giai cấp sâu sắc và là cơ sở xã hội cho các quy phạm pháp luật. Bởi vì, đạo đức có vai trò vô cùng quan trọng trong đời sống xã hội, nó có tác động mạnh mẽ đến sự vận động, phát triển của xã hội. Thực tế cho thấy, sức sống và giá trị của hiến pháp, pháp luật phụ thuộc vào mức độ phù hợp giữa các quy phạm mà nó tuyên bố bảo vệ với các chuẩn mực đạo đức mà số đông thừa nhận.
Xây dựng chuẩn mực đạo đức là tổng hòa các hoạt động tích cực, chủ động mà các giai cấp cầm quyền, các lãnh tụ chính trị và người đứng đầu các tổ chức, cơ quan, đơn vị xác lập lên nhằm hỗ trợ tích cực cho hiến pháp, pháp luật và các quy chế, quy định để điều chỉnh hành vi của các cá nhân trong các mối quan hệ, góp phần tạo nên sự thống nhất ý chí, hành động khi thực hiện các mục tiêu chính trị đã xác định. Quá trình xây dựng chuẩn mực đạo đức, đòi hỏi các chủ thể phải nắm vững quy luật vận động khách quan của nhân loại, xu thế thời đại và thấu hiểu mong muốn, tâm tư, nguyện vọng của quần chúng nhân dân để xác lập các tiêu chí, đồng thời tự mình làm gương trong việc hiện thực hóa các tiêu chí đó.
Thực tế cho thấy, Hồ Chí Minh đã kế thừa các chuẩn mực đạo đức truyền thống của dân tộc Việt Nam, tiếp thu tinh hoa đạo đức của nhân loại trong đó có đạo đức học mác xít và tấm gương đạo đức của V.I.Lênin để xác lập nên các chuẩn mực đạo đức cách mạng. Theo Hồ Chí Minh, người cán bộ, đảng viên cần thực hành theo bốn chuẩn mực đạo đức đó là: trung với Đảng, hiếu với dân; yêu thương con người; cần kiệm liêm chính, chí công vô tư và có tinh thần quốc tế trong sáng. Tức là, cán bộ, đảng viên phải tuyệt đối trung thành với mục tiêu, lý tưởng độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, kiên định mục tiêu con đường xã hội chủ nghĩa, tin tưởng vào thắng lợi và luôn hướng tới xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam; luôn lấy dân làm gốc, lấy sự nghiệp giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người và tự do, ấm no, hạnh phúc của nhân dân là mục tiêu xuyên suốt của cách mạng; luôn xác định rõ, mình là đầy tớ, là công bộc của dân, cho nên “việc gì có lợi cho dân phải hết sức làm, việc gì có hại cho dân phải hết sức tránh”. Cán bộ, đảng viên phải trở thành những người có lòng yêu thương con người, yêu thương đồng loại sâu sắc, nhất là những người khó khăn, yếu thế trong xã hội, những người vì lý do nào đó đang bị áp bức, bóc lột và đối xử bất công trong xã hội. Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, khái niệm con người không chung chung, trừu tượng, mà là những con người cụ thể đang sống trong một thời điểm lịch sử nhất định, không phân biệt màu da, tiếng nói, dân tộc, tôn giáo… Cán bộ, đảng viên còn phải trở thành những tấm gương về lao động cần cù, thực hành tiết kiệm, nhất là tiết kiệm của công và không tham nhũng, lãng phí; luôn đặt lợi của Đảng, của dân tộc, của tập thể lên trên lợi ích cá nhân, khi cần sẵn sàng hy sinh lợi ích cá nhân vì tập thể. Mặt khác, theo Hồ Chí Minh, mỗi quốc gia, dân tộc đều nằm trong mối quan hệ chặt chẽ không tách rời với các quốc gia, dân tộc khác, nhất là khi xã hội đã có phân hóa giai cấp. Do vậy, người cách mạng phải có tinh thần quốc tế trong sáng, đấu tranh cho lợi ích của dân tộc mình, đồng thời phải tôn trọng lợi ích của các dân tộc khác, phải coi việc giúp đỡ các quốc gia, dân tộc khác chính là tự giúp mình.
Những chuẩn mực đạo đức nêu trên là những tiêu chí chung nhất của người cách mạng. Trên cơ sở đó, quá trình lãnh đạo, chỉ đạo xây dựng nền đạo đức mới, Hồ Chí Minh đã cụ thể hóa các chuẩn mực này thành các tiêu chí phù hợp với từng lứa tuổi, từng giới, từng ngành, từng lĩnh vực hoạt động nhất định để mọi người dễ học tập, làm theo, biến các chuẩn mực đó thành phẩm chất đạo đức của mỗi người. Tư tưởng Hồ Chí Minh về các chuẩn mực đạo đức cách mạng, được Người đề cập đến lần đầu tiên trong bài viết Lênin và các dân tộc phương Đông, năm 1924. Người viết: “Không phải chỉ thiên tài của Người, mà chính là tính coi khinh sự xa hoa, tinh thần yêu lao động, đời tư trong sáng, nếp sống giản dị, tóm lại là đạo đức vĩ đại và cao đẹp của người thầy, đã ảnh hưởng lớn lao tới các dân tộc châu Á và đã khiến cho trái tim của họ hướng về Người, không gì ngăn cản nổi”. Trong Di chúc - một tác phẩm chứa đựng nhiều tư tưởng quan trọng của Người với toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta, Hồ Chí Minh tiếp tục nêu lên chuẩn mực đạo đức của người cán bộ, đảng viên, đó là: “Đảng ta là một đảng cầm quyền. Mỗi đảng viên và cán bộ phải thật sự thấm nhuần đạo đức cách mạng, thật sự cần kiệm liêm chính, chí công vô tư. Phải giữ gìn Đảng ta thật trong sạch, phải xứng đáng là người lãnh đạo, là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân”.
Hồ Chí Minh không chỉ khái quát nên các chuẩn mực đạo đức cách mạng, mà Người còn kiên rì, bền bỉ, tự mình nêu gương trong quá trình thực hiện các chuẩn mực đó. Do vậy, Người không chỉ trở thành lãnh tụ chính trị của Đảng và của dân tộc Việt Nam, mà còn trở thành một nhà đạo đức học hiện thực. Với khát vọng cháy bỏng là làm cho nước ta được hoàn toàn độc lập, nhân dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ta ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành, Hồ Chí Minh đã truyền cảm hứng cho các thế hệ cán bộ, đảng viên của Đảng, góp phần tạo nên những tấm gương oanh liệt của người cán bộ, đảng viên, để Đảng ta thực sự là đạo đức, là văn minh, được các tầng lớp nhân dân tin yêu, cảm phục và một lòng tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng. Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: “Trong 15 năm đấu tranh trước Cách mạng Tháng Tám và trong tám, chín năm kháng chiến, biết bao đảng viên ưu tú và quần chúng cách mạng đã vì dân, vì Đảng mà hy sinh một cách cực kỳ oanh liệt. Chỉ riêng trong cấp Trung ương của Đảng đã có 14 đồng chí bị đế quốc Pháp bắn, chém, hoặc đập chết trong nhà tù. Máu đào của các liệt sĩ ấy đã làm cho lá cờ cách mạng thêm đỏ chói. Sự hy sinh anh dũng của các liệt sĩ đã chuẩn bị cho đất nước ta nở hoa độc lập, kết quả tự do”. Tư tưởng và tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh không chỉ là chuẩn mực đạo đức của cán bộ, đảng viên, mà còn tạo ra một nền đạo đức mới ở Việt Nam.
Đại hội XIII của Đảng đã chỉ rõ: “Công tác xây dựng Đảng về đạo đức được đề cao, góp phần rèn luyện phẩm chất đạo đức, cách mạng, chống chủ nghĩa cá nhân, cơ hội thực dụng, “lợi ích nhóm” những biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ. Việc triển khai chỉ thị số 05 - CT/TW của Bộ Chính trị về việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh được thực hiện đồng bộ với các quy định của Đảng về trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên theo phương châm chức vụ càng cao, càng phải gương mẫu”. Mặc dù vậy, điểm hạn chế trong công tác xây dựng Đảng về đạo đức được Đại hội xác định là: “Một bộ phận cán bộ Đảng viên phai nhạt lý tưởng, giảm sút ý chí, ngại khó, ngại khổ, suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”. Hạn chế nêu trên có nhiều nguyên nhân, trong đó có nguyên nhân cơ bản đó là: “Tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, chủ nghĩa cá nhân, “lợi ích nhóm”, bệnh lãng phí, vô cảm, bệnh thành tích ở một bộ phận cán bộ, đảng viên chưa bị đẩy lùi”.
Từ thực trạng nêu trên, Đảng ta xác định, “Trong những năm tới phải đặc biệt coi trọng và đẩy mạnh hơn nữa xây dựng, chỉnh đốn Đảng toàn diện về chính trị, tư tưởng, đạo đức, tổ chức và cán bộ”. Theo đó, một trong những nhiệm vụ, giải pháp xây dựng Đảng về đạo đức trong thời gian tới được Đảng ta xác định là: “Nêu cao tinh thần tự giác tu dưỡng, rèn luyện đạo đức của cán bộ, đảng viên. Đẩy mạnh giáo dục đạo đức cách mạng, thực hiện thường xuyên, sâu rộng, có hiệu quả việc học tập, làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh gắn với thực hiện các nhiệm vụ chính trị”. Tuy nhiên, để làm cơ sở cho cán bộ, đảng viên tự giác tu dưỡng, rèn luyện đạo đức cách mạng, trước hết cần xác lập thống nhất một bộ tiêu chí, chuẩn mực đạo đức, phù hợp với yêu cầu về phẩm chất, năng lực của cán bộ, đảng viên thời kỳ mới và là cơ sở để các cấp ủy đảng cụ thể hóa thành các chuẩn mực phù hợp với chức trách, nhiệm vụ của từng cán bộ, đảng viên trong cơ quan, đơn vị mình.
Từ nay đến năm 2030 và 2045, tình hình chính trị, quân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội tiếp tục có những biến đổi nhanh chóng, khó lường. Cuộc đấu tranh giai cấp, dân tộc đang chuyển sang một giai đoạn mới với nội dung, hình thức mới khó khăn, phức tạp hơn. Toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế làm cho tính chất cạnh tranh giữa các giá trị, trong đó có giá trị đạo đức ngày càng gay gắt hơn. Chủ nghĩa đế quốc tiếp tục điều chỉnh để tồn tại và củng cố tham vọng bá quyền, làm gia tăng nguy cơ xung đột địa chính trị, thúc đẩy chạy đua vũ trang và hình thành một chủ nghĩa thực dân kiểu mới. Các thế lực thù địch không từ bỏ dã tâm thủ tiêu chủ nghĩa xã hội hiện thực, đẩy mạnh chiến lược “diễn biến hòa bình” chống phá cách mạng Việt Nam. Trong đó, chúng tập trung xuyên tạc, phủ nhận nền tảng tư tưởng của Đảng; dùng tiền bạc, vật chất để mua chuộc, dụ dỗ, lôi kéo, khống chế làm suy thoái phẩm chất đạo đức của cán bộ, đảng viên; thổi phồng, tuyệt đối hóa những hạn chế, khuyết điểm của một số cán bộ, đảng viên để từ đó, làm suy giảm niềm tin của nhân dân đối với Đảng, chia rẽ Đảng với nhân dân.
Bên cạnh đó, cách mạng nước ta đang trong thời kỳ xây dựng các tiền đề vật chất kỹ thuật cho chủ nghĩa xã hội, cần phải giải phóng sức sản xuất, khơi thông mọi nguồn lực để tập trung cho tăng trưởng và phát triển kinh tế. Do vậy, việc xây dựng, phát triển và hoàn thiện nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là một đòi hỏi bức thiết trong tiến trình cách mạng. Bởi vì, đây là mô hình phù hợp nhất của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Thực tế cho thấy, nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đã góp phần quan trọng để đất nước ta có cơ đồ, tiềm lực, vị thế, uy tín quốc tế chưa từng có trong lịch sử. Mặc dù vậy, mặt trái của nền kinh tế thị trường đang làm xuất hiện sự phân hóa giàu nghèo, từ đó tác động đến tâm lý, lối sống chạy theo vật chất và tư tưởng cá nhân chủ nghĩa của một bộ phận nhân dân, trong đó có cán bộ, đảng viên. Đây là một trong những khó khăn, thách thức của công tác xây dựng Đảng về đạo đức.
Mặt khác, yêu cầu xây dựng, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới không làm giảm đi vai trò lãnh đạo của Đảng, mà vai trò đó còn trở lên quan trọng hơn bao giờ hết. Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: “thắng đế quốc và phong kiến là tương đối dễ; thắng bần cùng và lạc hậu còn khó hơn nhiều”. Điều này đặt ra yêu cầu mới cho công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng. Bởi vì, để chủ động đón nhận và vượt qua các thách thức an ninh phi truyền thống đang diễn ra hiện nay, không có cách nào khác là phải dựa vào sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân. Sự nghiệp xây dựng đất nước phồn vinh, hạnh phúc mà Đại hội XIII của Đảng đã xác định là sự tiếp nối khát vọng, mong muốn của Hồ Chí Minh là, nước ta được sánh vai với các cường quốc năm châu. Sự nghiệp này được Hồ Chí Minh xác định: “Đây là một cuộc chiến đấu chống lại những gì đã cũ kỹ, hư hỏng, để tạo ra những cái mới mẻ, tốt tươi. Để giành lấy thắng lợi trong cuộc chiến đấu khổng lồ này cần phải động viên toàn dân, tổ chức và giáo dục toàn dân, dựa vào lực lượng vĩ đại của toàn dân”.
Tuy nhiên, việc đoàn kết, tập hợp, huy động sức mạnh của toàn dân luôn gắn liền với công tác xây dựng Đảng và kết quả luôn tỷ lệ thuận với sự trong sạch, vững mạnh của Đảng. Chất lượng công tác xây dựng Đảng là nhân tố quyết định đến thắng lợi của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay. Đại hội XIII của Đảng đã xác định, xây dựng Đảng phải gắn liền với xây dựng hệ thống chính trị và xây dựng Đảng phải xây dựng đồng bộ các nội dung cả chính trị, tư tưởng, đạo đức, tổ chức và cán bộ. Như vậy, xây dựng Đảng chính là xây dựng những con người trong Đảng, làm cho mỗi cán bộ, đảng viên thực sự là một hình mẫu tiêu biểu về con người mới xã hội chủ nghĩa. Bởi vì, Hồ Chí Minh khẳng định: “Muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội thì phải bồi dưỡng con người xã hội chủ nghĩa. Con người xã hội chủ nghĩa là con người có đạo đức cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư, một lòng một dạ phục vụ nhân dân, phục vụ cách mạng”. Theo Hồ Chí Minh, con người mới phải là con người có sự thống nhất giữa đức và tài, trong đó, đức là gốc, nếu không có đức thì không thể hoàn thành được nhiệm vụ cách mạng được giao và dù tài giỏi mấy cũng không lãnh đạo được nhân dân. Bởi lẽ, đạo đức cách mạng sẽ đẩy lùi chủ nghĩa cá nhân - kẻ thù hung ác của chủ nghĩa xã hội, nguyên nhân sâu xa của hàng trăm thứ bệnh làm cho sức mạnh của Đảng và niềm tin của nhân dân đối với Đảng dần suy giảm.
Xây dựng chuẩn mực đạo đức cách mạng của cán bộ, đảng viên hiện nay theo tư tưởng Hồ Chí Minh thực chất là việc xác lập một hệ tiêu chí để điều chỉnh các mối quan hệ của cán bộ, đảng viên dựa trên các chuẩn mực đạo đức cách mạng mà Người đã chỉ ra. Để thực hiện nhiệm vụ quan trọng này, trước hết cần quán triệt và thấm nhuần quan điểm Hồ Chí Minh về các mối quan hệ của con người. Theo Hồ Chí Minh, hoạt động của con người được thực hiện thông qua việc giải quyết các mối quan hệ vô cùng phong phú, đang dạng. Tuy nhiên, mọi hoạt động đều nằm trong ba mối quan hệ cơ bản đó là: với mình, với người và với việc. Như vậy, chuẩn mực đạo đức cách mạng mới phải là cơ sở để mỗi cán bộ đảng viên giải quyết đúng đắn các mối quan hệ cơ bản phù hợp với đòi hỏi của thời kỳ cách mạng mới. Theo đó, có thể đề xuất các chuẩn mực đạo đức của cán bộ, Đảng viên hiện nay theo tư tưởng Hồ Chí Minh như sau:
Một là, với bản thân và gia đình: khiêm tốn, cầu thị, ham học, triệt để thực hành tiết kiệm, không tham nhũng, lãng phí, có khát vọng cống hiến, cần cù, quyết tâm cao, nghị lực lớn, phụng công thủ pháp, đề cao trách nhiệm nêu gương; ứng xử với cha, mẹ, vợ, con, họ hàng đúng chuẩn mực đạo lý và giá trị truyền thống văn hóa dân tộc. Hai là, với đồng chí, đồng đội: đoàn kết, khoan dung, độ lượng, yêu thương, tương trợ, giúp đỡ chân thành. Ba là, với công việc: nhiệt tình, trách nhiệm, cụ thể, tỷ mỉ, tới nơi, tới chốn, luôn đổi mới, sáng tạo, hiệu quả. Bốn là, với nhân dân: việc gì có lợi cho dân thì làm, việc gì có hại đến dân thì tránh, tôn trọng dân; gương mẫu trước dân, gần gũi dân, học hỏi dân, tận tụy phục vụ nhân dân. Năm là, với Tổ quốc: luôn đặt lợi ích của quốc gia, dân tộc lên trên lợi ích cá nhân, gia đình; sẵn sàng hy sinh vì độc lập dân tộc; không làm điều gì có hại đến lợi ích quốc gia và danh dự của quốc thể. Sáu là, với Đảng: tuyệt đối trung thành với lý tưởng của Đảng, có niềm tin khoa học vào thắng lợi của chủ nghĩa xã hội; kiên quyết đấu tranh với các biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ. Bẩy là, với quốc tế: có tinh thần giúp đỡ trong sáng, thủy chung, tận tình; tôn trọng lẽ phải, ủng hộ chính nghĩa và tuân thủ luật pháp quốc tế. Tám là, với kẻ thù: kiên quyết đấu tranh với các quan điểm sai trái để bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, bảo vệ cán bộ, đảng viên, tổ chức đảng trước sự chống phá của các thế lực thù địch; không để bị mua chuộc, lôi kéo; không làm lộ, lọt bí mật của Đảng, Nhà nước./.
Tài liệu tham khảo
Người gửi / điện thoại
Đánh giá