Đăng ký | Đăng nhập

Email / Điện thoại

Mật khẩu

Nhớ mật khẩu | Quên mật khẩu

588030_87d9a

CHÍNH TRỊ HỌC

Chinhtrihoc.vn là website cá nhân của GS.TSKH Phan Xuân Sơn. Trang chinhtrihoc.vn là một trang web khoa học, nơi kết nối các nhà khoa học, những ai yêu thích, tâm huyết với việc nghiên cứu khoa học chính trị. Trang web ra đời nhằm góp phần vào sự phát triển khoa học chính trị nước nhà nói riêng, sự phát triển đất nước nói chung. Trang web được đăng ký và hoạt động theo pháp luật nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Chỉ các thành viên mới được đăng bài. Chịu trách nhiệm nội dung: GS.TSKH Phan Xuân Sơn. Hỗ trợ web: KS.CNTT Phạm Thị Ngọc Thanh ☏ 0866772894

ĐỔI MỚI CÁCH TIẾP CẬN XÂY DỰNG ĐỘI NGŨ CÁN BỘ CẤP CHIẾN LƯỢC

ĐỔI MỚI CÁCH TIẾP CẬN XÂY DỰNG ĐỘI NGŨ CÁN BỘ CẤP CHIẾN LƯỢC

GS.TSKH Phan Xuân Sơn

Bài đã đăng trong sách: Giải pháp xây dựng đội ngũ cán bộ cấp chiến lược đủ phẩm chất, năng lực và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ. Nxb. CTQG, H, 2020,  tr.442 – 453.

Mục lục bài viết

388
  1. Chiến lược

Chiến lược là là tổ hợp các mục tiêu căn bản, dài hạn cùng với chương trình, kế hoạch hành động, các phương thức và các biện pháp mang tính tổng thể, hiệu quả, có thể huy động tối đa nguồn lực của cả hệ thống, có khả năng làm thay đổi tích cực cục diện tình hình, tiến tới thực hiện mục đích đã chọn.

Như vậy, chiến lược gắn với sự tồn tại và phát triển toàn cục mang tính mục đích của một doanh nghiệp, cơ quan, tổ chức, địa phương hoặc đất nước; gắn với việc đề ra mục tiêu và sử dụng các phương thức, biện pháp mang tính kết nối, tổng thể để thực hiện mục đích đã lựa chọn. Từ đó, có thể thấy: Chiến lược phát triển của một đất nước gồm những nội dung sau:

- Lựa chọn mục đích phát triển tối ưu;

- Xác định các mục tiêu căn bản, dài hạn, mà thực hiện nó sẽ có ý nghĩa quyết định, thay đổi cơ bản, tích cực cục diện hiện có, hướng đến thực hiện mục đích cuối cùng;

- Hoạch định được phương thức, biện pháp, kế hoạch hành động mang tính kết nối, tổng thể trong toàn bộ hệ thống, có thể huy động tối đa nguồn lực của cả hệ thống để đạt được các mục tiêu, hướng đến thực hiện mục đích.

Khái niệm “chiến lược” xuất hiện đầu tiên trong quân sự. Để làm rõ hơn khái niệm này, chúng ta so sánh với những khái niệm ở cấp độ thấp hơn, như “chiến thuật”, “chiến dịch”. Trong chiến tranh dưới khái niệm “chiến lược” có “chiến thuật”, dưới “chiến thuật” là “chiến dịch”. Nếu như “chiến lược” là tổ hợp các mục tiêu, kế hoạch và phương thực hành động có ý nghĩa quyết định cuối cùng, thì “chiến thuật” là những mục tiêu, kế hoạch, phương thức hành động ở phạm vi, quy mô nhỏ hơn, thấp hơn để triển khai thực hiện chiến lược. Đến lượt mình, “chiến dịch” là những hoạt động để trực tiếp phục vụ cho việc thực hiện “chiến thuật” và gián tiếp phục vụ cho việc thực hiện “chiến lược”. Tất nhiên, những khái niệm này chứa đựng, quan hệ chuyển hóa lẫn nhau, làm tiền đề, điều kiện cho nhau. Không có chiến lược thì không thể có chiến thuật. Không có chiến thuật, cũng không thể thực hiện được chiến lược; đến lượt mình, “chiến dịch” là cấp thấp nhất, quy mô nhỏ nhất, nhưng bị chi phối bởi mục đích của chiến lược, mục tiêu của chiến dịch. Chiến lược và chiến thuật dịch thể hiện, triển khai trong chiến dịch. Nếu không có các chiến dịch thành công thì cũng không thể thực hiện được chiến thuật và chiến lược. Có những chiến dịch mang ý nghĩa chiến lược. Qua lịch sử hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ chúng ta thấy rõ mối quan hệ này. Các thuật ngữ chúng ta đang nói đến có nguồn gốc từ lĩnh vực quân sự, nhưng trong quản trị xã hội, chúng cũng có ý nghĩa khá tương đồng. Bởi suy cho cùng, chúng phản ánh tư duy và hành động xã hội của con người.

Trong quản trị quốc gia, chiến lược liên quan đến tổ hợp các mục tiêu căn bản, tổng thể, dài hạn của quốc gia và các phương thức, biện pháp để thực hiện chúng, nhằm thực hiện mục đích cuối cùng đã lựa chọn. Chiến thuật là những mục tiêu, kế hoạch cùng các phương thức mang tính cục bộ, hoặc bộ phận để thực hiện chiến lược. Chiến dịch là những cuộc vận động, những phong trào, những phương thức và biện pháp hàng ngày để thực hiện các mục tiêu của chiến thuật và mục đích của chiến lược. Nếu có thể so sánh giữa “chiến lược” và “chiến thuật” và “chiến dịch” thì “chiến lược” mang tính “mục đích”, “chiến thuật” mang tính “mục tiêu”, “chiến dịch” mang tính “chỉ tiêu”. Trong quản trị quốc gia, chiến lược mang tính mục đích mang tính tổng thể, mang tính căn bản (thay đổi về chất).

  1. Cán bộ cấp chiến lược

Từ nội dung của khái niệm “chiến lược” nêu trên, chúng ta có thể xác định đội ngũ cán bộ cấp chiến lược là đội ngũ cán bộ có năng lực nhận thức, hoạch định và tổ chức thực hiện tổ hợp các mục tiêu căn bản, dài hạn, có thể làm thay đổi tích cực cục diện tình hình phát triển đất nước, hướng đến mục đích cuối cùng; có năng lực đề ra các ý tưởng, lý thuyết, chương trình, kế hoạch, các phương thức và các biện pháp mang tính tổng thể, hiệu quả trong toàn hệ thống, để có thể huy động tối đa nguồn lực của cả hệ thống nhằm đạt được các mục tiêu đặt ra và cuối cùng là thực hiện được mục đích đã chọn.

Xét theo nội hàm khái niệm “năng lực”, dù một người cán bộ ở cấp nào cũng cần có khung năng lực chung gồm ba yếu tố: tri thức, kỹ năng và thái độ. Tuy nhiên, yêu cầu các yếu tố đó ở cấp thấp, cấp trung và cấp cao là khác nhau, thậm chí khác nhau về chất. Ở một cách tiếp cận khác: Có Tâm, có Tầm, có Trí, có Tài (4T), thì yêu cầu Tâm, Tầm, Trí, Tài ở mỗi cấp khác nhau là khác nhau.

Cách tiếp cận cấu trúc nhân sự của một hệ thống, được xếp thành 3 bậc: cấp cao, cấp trung, cấp thấp; hoặc cấp chiến lược, cấp thi hành, cấp thừa hành. Nếu được biểu hiện bới một sơ đồ hình tháp thì cấu trúc của đội ngũ nhân sự của một quốc gia được chia làm 3 tầng (xem hình):

hnh_minh_ha

Chiến lược thường bao gồm thiết lập mục tiêu, xác định hành động để đạt được mục tiêu và huy động các nguồn lực để thực hiện các hành động. Lãnh đạo cấp cao của một tổ chức thường được giao nhiệm vụ xác định chiến lược. Chiến lược có thể được dự định hoặc có thể được biểu hiện như một mô hình hoạt động của tổ chức.  Nó liên quan đến các hoạt động như hoạch định chiến lược và tư duy chiến lược. Một chiến lược gia là một người có trách nhiệm xây dựng và thực hiện chiến lược.[1]

Cấp chiến lược là cấp cao nhất của tháp nhân sự. Nhìn chung, các tác giả đều thống nhất cho rằng, cán bộ cấp chiến lược là lực lượng “tinh hoa của xã hội”, có trí tuệ, năng lực tư duy, năng lực tổ chức, hành động và phẩm chất đạo đức ở tầm cao, vượt trội, đủ sức đưa ra ý tưởng mới, hoạch định, điều hành, dẫn dắt sự phát triển của đất nước, (tức của cả hệ thống)[2]. Trong đội ngũ nhân sự cấp chiến lược này, chúng ta có thể chia ra làm mấy loại sau: (i) Có năng lực tư duy lý thuyết, lý luận, mang tầm chiến lược, tư duy chiến lược; (ii) Có năng lực hoạch định, quyết định những vấn đề mang tầm chiến lược, tức có tính dài hạn, căn bản, hệ thống; (iii) Có năng lực kết nối, tổ chức, huy động điều khiển hoạt động toàn bộ hệ thống để thực hiện mục tiêu chiến lược. Ba loại năng lực này có quan hệ với nhau. Mỗi cá nhân ở tầng tháp này có thể hội đủ cả ba năng lực, nhưng cũng có thể có người ít nhiều vượt trội chỉ một hoặc hai loại năng lực.

Trong ba loại phẩm chất năng lực nói trên, quan trọng nhất là năng lực thứ nhất. Người Việt ta có câu “một người hay lo bằng một kho người hay làm”. Đây chính là những “người hay lo”, lo cho vận mệnh của quốc gia, dân tộc, lo cho việc nước, việc dân. Năng lực tư duy chiến lược là năng lực vạch đường, chỉ đường, thể hiện tầm nhìn xa rộng, sự hiểu biết toàn diện các mối quan hệ của hệ thống, các quy luật vận động của tự nhiên, xã hội và tư duy. Trong thực tiễn, những người này là những lý thuyết gia, chiến lược gia, mà sản phẩm tư duy của họ có thể là cơ sở cho hoạch định các chiến lược, không chỉ của một quốc gia mà còn có thể cho nhiều quốc gia, thậm chí cho cả thế giới. Chúng ta không khó để tìm các ví dụ về các chính sách mang tầm chiến lược của nhiều nước phát triển, mà đằng sau nó là các lý thuyết nổi tiếng của các lý thuyết gia, học giả nổi tiếng.

Ở mức độ quan trọng thứ hai, phải kể đến những nhà hoạch định, quyết định chiến lược. Đây là những người biết vận dụng lý thuyết vào thực tiễn, am hiểu tình hình và nhu cầu thực tiễn, của hệ thống, đưa ra những quyết sách vừa có căn cứ khoa học, vừa phản ánh tình hình thực tế, phù hợp với thực tế, rõ ràng, khả thi, có khả năng làm xoay chuyển, thay đổi tích cực cục diện tình hình, thuận lợi việc tổ chức thực hiện trên thực tế.

Thứ ba là những nhà lãnh đạo, quản lý (thi hành) ở tầm chiến lược. Là những người hiểu biết sâu sắc mục đích, mục tiêu của các quyết sách, hiểu rõ vị trí, vai trò, mối quan hệ; năng lực, nguồn lực và động lực các bộ phận cấu thành hệ thống; biết cách tổ chức, điều hành, huy động, phối hợp hành động của toàn hệ thống để đạt được các mục tiêu của chiến lược.

Làm rõ đặc điểm của ba loại nhân sự cấp chiến lược trên đây, không chỉ để thấy rõ vị trí, vai trò của từng loại nhân sự mà còn có thể tìm ra phương thức phù hợp để xây dựng, sử dụng đội ngũ nhân sự cấp chiến lược nói chung, từng loại nhân sự sao cho phù hợp, hiệu quả. Yêu cầu đặt ra là, không được tuyệt đối hóa hoặc coi thường vai trò của loại nhân sự nào. Loại nhân sự thứ nhất là tiêu biểu cho tư duy, tinh thần của một quốc gia dân tộc. Các quốc gia phát triển, tiên phong và thịnh vượng cho đến ngày nay đều nhờ rất nhiều vào nguồn nhân sự này. Ở phương Tây, chính nguồn nhận sự này đã làm nên thời đại Khai sáng, và vẫn luôn chú ý kiến tạo để luôn có nguồn nhân lực này trong phát triển. Nguồn nhân sự này được hình thành nhờ hun đúc từ nhiều môi trường, gia đình, nhà trường, xã hội...Đội ngũ này là sản phẩm của nền văn hóa, văn hiến và văn minh; phụ thuộc vào mô hình xã hội, vốn xã hội; phụ thuộc vào môi trường giáo dục, khoa học, học thuật…Những người này, là sản phẩm, như người xưa thường nói: “địa linh sinh nhân kiệt”, hay “hấp thụ khí thiêng sông núi”;

Tuy nguồn nhân lực thứ hai và ba đều rất quan trọng, nhưng nếu thiếu vắng nguồn nhân sự chiến lược thứ nhất, quốc gia sẽ thiếu tư duy tiên phong, thiếu tầm nhìn lý thuyết, lý luận; sẽ gặp khó khăn, mất phương hướng chiến lược, phải trả giá cho những phải mò mẫm, thử nghiệm với những hành động ngắn hạn, ngẫu hứng. Nguồn nhân sự này có thế gọi là “hiền tài” hoặc “nhân tài”, đã đang và sẽ là “nguyên khí của quốc gia”.

Cán bộ cấp chiến lược mà nghị quyết 26 Hội nghị TƯ lần thứ 7 khóa XII của Đảng nói tới là một bộ phận quan trọng, nhưng là một bộ phận nhỏ, thậm chí rất nhỏ của nguồn nhân sự này. Đó là đội ngũ cán bộ do Bộ chính trị, Ban bí thư quản lý, gồm: các đồng chí Ủy viên Bộ Chính trị, Ban Bí thư, Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng; các đồng chí lãnh đạo từ cấp phó trở lên của các ban, bộ, ngành, đoàn thể ở Trung ương và cấp ủy của tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương. Tất cả khoảng 600 người, chủ yếu là cán bộ lãnh đạo, quản lý của các tổ chức trong hệ thống chính trị nước ta. Nếu chia cho dân số nước ta thì đội ngũ này chỉ chiếm 0,0006 %. Nếu chia cho đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức, hưởng lương và cả lực lượng vũ trang (khoảng 5 triệu), ta có khoảng 0,12%.  

  1. Khái quát thực trạng đội ngũ cán bộ cấp chiến lược và xây dựng đội ngũ cán bộ cấp chiến lược ở nước ta hiện nay

Nghị quyết số 26 của Hội nghị Trung ương 7 (khóa XII), ngày 19-5-2018 đã đưa ra đánh giá tổng thể về công tác cán bộ của Đảng, trong đó, lần đầu tiên dành sự quan tâm đặc biệt đến đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp chiến lược. Nghị quyết đánh giá cao vai trò tích cực của đội ngũ cán bộ nói chung, đội ngũ cán bộ cấp chiến lược nói riêng và khẳng định: “Sự trưởng thành, lớn mạnh và phát triển của đội ngũ cán bộ 20 năm qua là nhân tố then chốt, quyết định làm nên những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử của công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc” [3]. Bên cạnh đó nghị quyết cũng chỉ rõ những khuyết điểm, yếu kém, hạn chế, bất cập trong công tác cán bộ, của một bộ phận không nhỏ cán bộ, kể cả cán bộ cấp chiến lược và những và cho rằng, đó “là một nguyên nhân chủ yếu làm cho đất nước phát triển chưa tương xứng với tiềm năng, thế mạnh và mong muốn của chúng ta, làm suy giảm niềm tin của nhân dân đối với Đảng và Nhà nước.”[4]

Cụ thể những khuyết điểm, yếu kém, hạn chế, bất cập được Nghị quyết chỉ rõ như sau:

  • Về số lượng, chất lượng, cơ cấu và năng lực:

Nhìn tổng thể, đội ngũ cán bộ đông nhưng chưa mạnh; tình trạng vừa thừa, vừa thiếu cán bộ xảy ra ở nhiều nơi; sự liên thông giữa các cấp, các ngành còn hạn chế; thiếu những cán bộ lãnh đạo, quản lý giỏi, nhà khoa học và chuyên gia đầu ngành trên nhiều lĩnh vực; nhiều cán bộ, trong đó có cả cán bộ cấp cao thiếu tính chuyên nghiệp, khả năng làm việc trong môi trường quốc tế còn nhiều hạn chế, năng lực chưa ngang tầm nhiệm vụ, …

  • Về phẩm chất đạo đức, lối sống:

Một số cán bộ lãnh đạo, quản lý, trong đó có cả cán bộ cấp chiến lược, cán bộ cao cấp, thiếu gương mẫu, uy tín thấp, quan liêu, xa dân, cá nhân chủ nghĩa, vướng vào tham nhũng, lãng phí, tiêu cực, lợi ích nhóm. Tình trạng chạy chức, chạy quyền, chạy tuổi, chạy quy hoạch, chạy luân chuyển, chạy bằng cấp, chạy khen thưởng, chạy danh hiệu, chạy tội..., chậm được ngăn chặn, đẩy lùi.

  • Về hạn chế của công tác cán bộ:

Công tác cán bộ còn nhiều hạn chế, bất cập, Đánh giá cán bộ vẫn là khâu yếu, chưa phản ánh đúng thực chất, chưa gắn với kết quả, sản phẩm cụ thể. Công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ chậm đổi mới, chưa kết hợp chặt chẽ giữa lý luận với thực tiễn, chưa gắn với quy hoạch và chức danh. Việc sắp xếp, bố trí, phân công, bổ nhiệm, giới thiệu cán bộ ứng cử vẫn còn tình trạng đúng quy trình nhưng chưa đúng người, đúng việc. Chủ trương thu hút nhân tài chậm được cụ thể hoá bằng các cơ chế, chính sách phù hợp; kết quả thu hút trí thức trẻ và người có trình độ cao chưa đạt yêu cầu.

  • Thiếu chiến lược quốc gia (chứ không riêng trong hệ thống hành chính) xây dựng hiền tài
  • Hành chính hóa trong tầm nhìn về cán bộ chiến lược

+ Phân biệt giữa cán bộ trong lĩnh vực hành chính và các lĩnh vực khác

+ Chưa coi trọng các thể chế xã hội về hiền tài.

  • Thiếu gắn kết tổng thể về nguồn nhân lực chất lượng cao
  1. Một số giải pháp căn bản để xây dựng đội ngũ cán bộ cấp chiến lược

Thứ nhất: Quán triệt tình thần Nghị quyết 26 Hội nghị TƯ lần thứ 7 khóa XII

 Để khắc phục nhưng khuyết điểm, yếu kém, hạn chế, bất cập, Nghị quyết 26 Hội nghị TƯ lần thứ 7 khóa XII (19-5-2018) đã đưa ra một loạt quan điểm, mục tiêu, nhiệm vụ và giải pháp chủ yếu đối với công tác cán bộ và xây dựng đội ngũ cán bộ cấp chiến lược của Đảng (cán bộ lãnh đạo, quản lý).

Nghị quyết số chủ trương tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là cấp chiến lược đầy đủ phẩm chất, năng lực và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ. Cụ thể là  “đủ sức lãnh đạo đưa nước ta trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại vào năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 trở thành nước công nghiệp hiện đại, theo định hướng xã hội chủ nghĩa”.

Nghị quyết cũng xác định rõ các cơ chế xây dựng đội ngũ cán bộ nói chung, xây dựng đội ngũ cán bộ cấp chiến lược nói riêng, liên quan đến ba chủ thể quan trọng, có vai trò, vị trí khác nhau. Nếu không xác định đúng đắn vai trò trách nhiệm của từng chủ thể, công tác xây dựng đội ngũ cán bộ, nhất là cán bộ cấp chiến lược, khó có thể thành công. Đặc biệt trong đó, cần xác định rõ vai trò của nhân dân:

- Đối với Đảng lãnh đạo, Nghị quyết xác định: Xây dựng đội ngũ cán bộ, nhất là cán bộ cấp chiến lược là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu, là công việc hệ trọng của Đảng, Thực hiện nghiêm, nhất quán nguyên tắc Đảng thống nhất lãnh đạo trực tiếp, toàn diện công tác cán bộ và quản lý đội ngũ cán bộ trong hệ thống chính trị. Xây dựng đội ngũ cán bộ là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị, trực tiếp là của các cấp uỷ, tổ chức đảng mà trước hết là người đứng đầu và cơ quan tham mưu về công tác tổ chức, cán bộ của Đảng. Trong nhiệm kỳ Đại hội XII, Đảng ta đã có chủ trương thí điểm bầu trực tiếp bí thư cấp ủy ở những tổ chức, cấp bộ đảng có điều kiện đảm bảo. Cho đến nay sau đại hội cấp cơ sở và trên cơ sở, cho thấy ở những tổ chức đảng bầu bí thư trực tiếp ở đại hội, nhìn chung cho kết quả tốt. Từ kết quả này, có thể thực hiện bầu trực tiếp bí thư cấp ủy ở các cấp.

- Đối vở Nhà nước: Phát huy mạnh mẽ vai trò của Nhà nước, nhất là quản lý nhân sự trong hệ thống công vụ, trong xây dựng các chính sách tiền lương, nhà ở, đãi ngộ, đặc biệt là trong “nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, nhất là nhân lực chất lượng cao, thu hút, trọng dụng nhân tài”. Cần có các biện pháp để hoàn thiện mô hình công vụ theo vị trí việc làm, thông qua việc làm để chọn cán bộ cấp chiến lược.

- Đối với Nhân dân: Phát huy vai trò của Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể nhân dân và cơ quan truyền thông, báo chí trong công tác cán bộ và xây dựng đội ngũ cán bộ. Nghị quyết nhấn mạnh: “Sức mạnh của Đảng là ở sự gắn bó máu thịt với nhân dân; phải thực sự dựa vào nhân dân để xây dựng Đảng, xây dựng đội ngũ cán bộ”.

Liên quan đến vai trò của nhân dân trong xây dựng đội ngũ cán bộ nói chung, đội ngũ cán bộ cấp chiến lược nói riêng, ngoài những giải pháp đã có, cần thực hiện một số giải pháp mới, mang tính đột phá: “Phải thực sự dựa vào nhân dân đề xây dựng đội ngũ cán bộ.”

Trong lịch sử dân tộc ta nói chung, trong sự nghiệp cách mạng của Đảng và của dân tộc trong thời đại ngày nay nói riêng, dân là gốc nước, biết dựa vào nhân dân để dựng nước và giữ nước, không chỉ là một nguyên lý, một bài học lớn, một phương châm hành động. Nhân dân ta biết nuôi dưỡng hào kiệt trong các làng mạc, xóm thôn; khi ngày thường thì làm lụng cấy cày, sinh con để cái, khi cần thì ra phò Vua giúp nước. Bởi thế, từ xưa, hào kiệt của nước Việt ta không bao giờ thiếu. Nói Đảng ta là “con nòi” của dân tộc là mang ý nghĩa ấy. Đảng, các tổ chức đảng, đảng viên của đảng đều từ nhân dân mà ra. Năng lực hành động, văn hóa ứng xử, đều được trao truyền từ nền văn hóa, văn hiến và văn minh dân tộc. Phát huy vai trò của nhân dân trong đào tạo nguồn nhân lực nói chung, đội ngũ cán bộ và đội ngũ cán bộ cấp chiến lược nói riêng, phải thấm nhuần quan điểm có tính nguyên lý đó. Vấn đề là “dựa vào dân” không được dừng lại như một khẩu hiệu, mà phải được thể chế hóa, cụ thể hóa, quy phạm hóa trong công tác cán bộ và trong xây dựng đội ngũ cán bộ cấp chiến lược của Đảng.

Thứ hai: Có cách nhìn mới, toàn diện hơn về đội ngũ cán bộ cấp chiến lược, không chỉ bó hẹp trong phạm vi cán bộ lãnh đạo quản lý do Bộ Chính trị, Ban Bí thư quản lý như hiện nay, mà mở rộng ra đội ngũ cán bộ cấp chiến lược trong các nhà khoa học, các học giả, các nhà tư tưởng, các nhà lý luận, các chuyên gia trong toàn xã hội.

Như trên đã nói, cán bộ cấp chiến lược mà nghị quyết 26 Hội nghị TƯ lần thứ 7 khóa XII của Đảng nói tới là một bộ phận quan trọng, nhưng là một bộ phận nhỏ, thậm chí rất nhỏ của nguồn nhân sự tầm chiến lược, chỉ chiếm 0,0006 % dân số nước ta và chiếm khoảng 0,12% đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức, hưởng lương và cả lực lượng vũ trang. Như vậy có thể có một bộ phận nguồn nhân lực có tầm, có phẩm chất chiến lược đang ở đâu đó trong các lĩnh vực khác nhau của xã hội còn chưa được đề cập đến, hoặc chưa được quan tâm đúng mức. Nói cách khác, cách nhìn về “cán bộ chiến lược” của quốc gia vẫn còn là cách nhìn của hệ thống công chức, viên chức nhà nước, của khu vực hành chính công. Ngày nay, cách nhìn như vậy thiếu toàn diện, có thể bỏ sót một số lượng khá lớn “cán bộ chiến lược” của đất nước không được quan tâm, không được quản lý. Mặt khác, nó tạo ra sự giới hạn, ngăn cách sự luân chuyển nguồn nhân lực ở các cấp nói chung, ở cấp chiến lược nói riêng giữa các khu vực công – tư, giữa các thành phần kinh tế. Nói riêng trong hệ thống nhân sự của hệ thống chính trị, các nhà khoa học, các chuyên gia có thể “đủ phẩm chất chiến lược”, nhưng vẫn không được quan tâm như là những cán bộ chiến lược giữ các cương vị lãnh đạo, quản lý. Đây là nhược điểm của cách nhìn của hệ thống quan liêu bao cấp trước đây. Hệ lụy của nó là tạo ra sự bất bình đẳng trong “chính sách cán bộ” đối với nguồn nhân lực chất lượng cao làm công tác chuyên môn: các nhà khoa học, các chuyên gia.

Ở nhiều nước phát triển đội ngũ các nhà khoa học trình độ cao hoạt động trong các cơ sở giáo dục đại học, các viện nghiên cứu, các “Think tank”…là nơi hội tụ những bộ não hoạch định chiến lược quan trọng cho quốc gia. Ở nước ta, chúng ta chưa có cách tiếp cận phù hợp với đội ngũ này từ tên gọi, vị trí việc làm, chức danh và đãi ngộ (chính sách cán bộ). Chúng ta vẫn giữ cách nhìn hành chính đối với đội ngũ này, không tương xứng với vai trò của họ trong lĩnh vực hoạt động chuyên sâu của họ - lĩnh vực khoa học và công nghệ, một lĩnh vực có tính quyết định về tốc độ và chất lượng phát triển của đât nước[5].

Thứ ba: Xây dựng đội ngũ cán bộ, nhất là đội ngũ cán bộ cấp chiến lược phải xuất phát từ lợi ích của nhân dân, của đất nước

Công tác cán bộ của Đảng mà không gắn với dân, không lo cái lo của dân, không vui cái vui của dân, thậm chí vô cảm trước nỗi khổ người dân, thì không bao giờ có cán bộ tốt. Nếu có, cũng chỉ là may mắn mà thôi. Cần khắc phục tính biệt phái, chủ nghĩa thành phần cực đoan. Cần sử dụng mọi biện pháp truyền thống và hiện đại để đạo tạo nguồn nhân lực, đào tạo người tài, bồi dưỡng nhân tài, phát hiện hiền tài. Nhân tài và hiền tài có thể có được nhờ tố chất tự nhiên, nhờ hệ thống thể chế và nhờ học tập. Chúng ta cần phát huy tất cả các yếu tố đó, đặc biệt là hệ thống đào tạo: Đào tạo ở trường công, trường tư, ở trong nước, ở ngoài nước. Người tài có thể thông qua tự tiến cử, thông qua tiến cử, khoa cử, bầu cử…Đó có thể là nguồn của cán bộ nói chung, của cán bộ cấp chiến lược nói riêng. Về mặt này, Nghị quyết 26 của Đảng chủ trương rất đúng đắn rằng: Xây dựng Chiến lược quốc gia về thu hút và trọng dụng nhân tài theo hướng không phân biệt đảng viên hay người ngoài Đảng, người Việt Nam ở trong nước hay ở nước ngoài. Quy định trách nhiệm của lãnh đạo và cấp uỷ viên các cấp có trách nhiệm đào tạo, bồi dưỡng, tiến cử người thay thế mình; tiến cử người có đức, có tài vào những vị trí xứng đáng. Mở rộng việc thi tuyển để bổ nhiệm cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp vụ, sở, phòng.

Thứ tư, người lo việc cho dân phải do dân bầu

Đây là một giải pháp mang tính thể chế, nếu thực hiện được sẽ mang tình đột phá. Nghị quyết 26 hội nghị TW 7 khóa 12 chủ tương “Đổi mới công tác ứng cử, bầu cử, bổ nhiệm, bố trí, sử dụng cán bộ. Thực hiện bầu cử có số dư, ứng viên phải trình bày chương trình hành động và trách nhiệm thực hiện”. Đổi mới công tác bầu cử cần khắc phục bệnh hình thức, đảm bảo tình khoa học và tin tưởng vào nhân dân. Trong quá trình bầu cử có mấy bước cơ bản: Thứ nhất, đề cử, ứng cử (gọi tắt là “cử”); thứ hai, bỏ phiếu cho người mà mình lựa chọn, tín nhiệm (gọi là “bầu”) và thứ ba, công bố người trúng cử và người thất cử.

Hiện nay, ở nước ta, qua năm bước ba vòng hiệp thương, mà người dân vẫn chưa tự chọn cho mình người đề bầu mà vẫn là bầu người trong danh sách “Đảng cử”, thì khó có cán bộ tâm huyết vì dân, gắn bó với vận mệnh nhân dân. Bởi dân không quyết định được số phận chính trị của cán bộ, dù thái độ của cán bộ đối với dân thế nào đi nữa. Cán bộ không “sợ” dân, cán bộ chỉ “sợ” Đảng thôi. Dân ta có quyền giám sát cán bộ, công chức, đảng viên. Nhưng việc giám sát còn mang tính hình thức, hiệu lực pháp lý thấp. Mặt khác, cho dù một số cán bộ có tín nhiệm thấp, nhưng “bộ máy” bao che cho nhau thì phiếu tín nhiệm của dân cũng mất tác dụng.

Bầu cử là một trong thể chế quan trọng nhất trong đời sống chính trị. Vì nó thể hiện ý chí, thái độ, nhu cầu, nguyện vọng người dân đối với các cơ quan nhà nước, quan chức, công chức nhà nước và đối với chính sách công. Để chọn được người cán bộ tốt, kinh nghiệm của nhiều đảng chính trị trên thế giới là, người ta đưa người ra dân bầu trước, nếu dân tín nhiệm mới đưa vào giữ trọng trách trong Đảng. Nhờ đó, nếu đảng có thắng cử mới có thủ tướng, nghị sĩ, bộ trưởng, tỉnh trưởng…Ở nước ta thì gần như ngược lại, Đảng chọn trước rồi đề cử, đưa ra dân bầu. Mặt khác số lượng người của Đảng đưa ra, hiện nay theo yêu cầu “có số dư” nhất định, nhưng hầu hết (trừ tổng tuyển cứ năm 1946) vẫn chưa đạt mức “ít nhất từ hai chọn một” theo nguyên tắc của bầu cử dân chủ.

Để khắc phục tình trạng này, và hơn nữa phòng chống tham nhũng, chạy chức, chạy quyền trong công tác cán bộ, đặc biệt là cán bộ cấp chiến lược, cần kết hợp đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác bầu cử, với việc nhân dân trực tiếp lựa chọn, đề cử và bầu cử những cán bộ giữ vị trí lãnh đạo, quản lý đứng đầu chính quyền các cấp từ Trung ương đến cơ sở. Cần đổi mới cơ chế “Đảng cử - Dân bầu” sang cơ chế “ Dân cử - Dân bầu, Đảng dùng”. Từ đó đòi hỏi phải  đối mới phương thức Đảng lãnh đạo công tác cán bộ của Đảng, kết hợp giữa sự lãnh đạo của Đảng và ý chí nhân dân. Đó thực sự là ý Đảng lòng dân.

Khi dân bầu ra rồi (tín nhiệm rồi) thì Đảng sẽ đưa các ứng viên đắc cử ấy vào các vị trí quan trọng trong Đảng, mà nếu những người được dân tín nhiệm mà chưa đảng viên thì thì thu hút họ vào Đảng. Đối với đội ngũ công chức, viên chức, có thể áp dụng phương thức khác, nhưng chủ yếu là thi tuyển (có quy phạm pháp luật rõ ràng) do người đứng đầu cơ quan đứng ra tổ chức và chịu trách nhiệm với tư cách là người đứng đầu, trước Đảng, trước dân. Thi cử là một truyền thống tìm kiếm hiền tài hiệu quả, công bằng trong lịch sử nước ta. Nhiều thượng thư, tể tướng trong các triều đình phong kiến nước ta rất tài năng, được trọng dụng từ lúc còn rất trẻ, thông qua thi cử.

Thứ năm: Mở rộng dân chủ, phát huy vai trò giám sát của nhân dân đói với công tác cán bộ và đội ngũ cán bộ cấp chiến lược.

 Quốc hội, Hội đồng nhân dân với tư cách là các cơ quan dân cử, cần có các chương trình giám sát chuyên đề về công tác xây dựng đội ngũ cán bộ cấp chiến lược. Phát huy vai trò giám sát, phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội; của nhân dân đối với việc xây dựng đội ngũ cán bộ nói chung, đội ngũ cán bộ cấp chiến lược nói riêng. Trong đó, như Nghị quyết 26 đã chỉ rõ “Thể chế hoá, cụ thể hoá và tổ chức thực hiện có hiệu quả các quy định của Bộ Chính trị, Ban Bí thư về công tác giám sát, phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức chính trị - xã hội và nhân dân tham gia xây dựng đội ngũ cán bộ.” Nghị quyết còn yêu cầu: Thường trực cấp uỷ các cấp ở địa phương định kỳ tiếp dân; bí thư, thó bí thư, uỷ viên ban thường vụ và cấp uỷ viên dự sinh hoạt với chi bộ khu dân cư; đảng viên công tác tại xã, phường, thị trấn sinh hoạt đảng tại chi bộ khu dân cư, gắn bó mật thiết với nhân dân, lắng nghe tâm tư, nguyện vọng của nhân dân, để nhân dân thực hiện việc giám sát cán bộ, đảng viên, nhất là về đạo đức, lối sống. Cụ thể hoá và thực hiện có hiệu quả cơ chế dân biết, dân bàn, dân làm, dân giám sát trong công tác cán bộ; mở rộng các hình thức lấy ý kiến đánh giá sự hài lòng của người dân đối với từng đối tượng cán bộ lãnh đạo, quản lý trong hệ thống chính trị một cách phù hợp. Hoàn thiện cơ chế tiếp nhận và xử lý những ý kiến phản ảnh, kiến nghị, khiếu nại, tố cáo của nhân dân, nhất là của người có uy tín trong cộng đồng dân cư gửi đến cấp uỷ, tổ chức đảng, người đứng đầu địa phương, cơ quan, đơn vị và qua các phương tiện thông tin đại chúng với các hình thức phù hợp, hiệu quả.

Tóm lại, cần đổi mới phương thức lãnh đạo công tác cán bộ, từ mô hình tập trung quan liêu (bộ máy làm tất và chỉ chú trọng nhân sự của bộ máy) sang dân chủ pháp quyền (dựa vào nhân dân và pháp luật, quan tâm đến toàn xã hội). Chuyển công tác cán bộ từ trong “ghế salon” ra với dân với xã hội. Công tác cán bộ cũng phải của dân, do dân, vì dân; dân là gốc và phải luôn dựa vào dân. Không cứ bầu cử, mà bất cứ việc gì đưa ra dân lo liệu thì đều xong. Tránh việc nói “dân là gốc” mà không tin dân, nói dựa vào dân mà khinh dân. Dựa vào dân để làm công tác cán bộ, không có nghĩa là từ bỏ nguyên tắc Đảng thống nhất, trực tiếp quản lý công tác cán bộ. Nhưng nguyên tắc đó cần áp dụng vào trong cơ chế mới.

Tài liệu tham khảo:

  1. Đảng cộng sản Việt Nam: Nghị quyết 26 Hội nghị TƯ lần thứ 7 khóa 12, ngày 19-5-2018
  2. Luật sửa đổi Giáo dục Đại học 2018
  3. Chính phủ: Nghị định 141/2013/NĐ-CP, ngày ngày 24 tháng 10 năm 2013, Chính phủ ban hành quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật giáo dục đại học.
  4. Đoàn Minh Huấn: Tập chí cộng sản ngày 26/4/2018; http://www.tapchicongsan.org.vn/Home/Nghiencuu-Traodoi/2018/50569/Xay-dung-doi-ngu-can-bo-cap-chien-luoc-o-nuoc-ta.aspx
  5. Lê Hữu Nghĩa: http://tapchiqptd.vn/vi/nghien-cuu-thuc-hien-nghi-quyet/xay-dung-doi-ngu-can-bo-cap-chien-luoc-ngang-tam-nhiem-vu/12807.html/
  6. Lê Thanh Vân: https://dantri.com.vn/xa-hoi/can-bo-cap-chien-luoc-la-ai-20180506233555879.htm
  7. Mintzberg, Henry and, Quinn, James Brian (1996). The Strategy Process:Concepts, Contexts, Cases. Prentice Hall. ISBN 978-0-132-340304.


[1]  Mintzberg, Henry and, Quinn, James Brian (1996). The Strategy Process:Concepts, Contexts, Cases. Prentice Hall. ISBN 978-0-132-340304.

[2] Xem thêm: Lê Hữu Nghĩa: http://tapchiqptd.vn/vi/nghien-cuu-thuc-hien-nghi-quyet/xay-dung-doi-ngu-can-bo-cap-chien-luoc-ngang-tam-nhiem-vu/12807.html/ Đoàn Minh Huấn: Tập chí cộng sản ngày 26/ 4/ 2018; Lê Thanh Vân: https://dantri.com.vn/xa-hoi/can-bo-cap-chien-luoc-la-ai-20180506233555879.htm

[3] Nghị quyết 26 Hội nghị TƯ lần thứ 7 khóa 12, ngày 19-5-2018

[4] Nghị quyết 26 Hội nghị TƯ lần thứ 7 khóa 12, ngày 19-5-2018

[5] Chính sách lương đối với viên chức giảng dạy có chức danh Giáo sư theo quy định tại Nghị định số 141/2013/NĐ-CP ngày 24 tháng 10 năm 2013 của Chính phủ, hướng dẫn thực hiện Luật Giáo dục đại học (2012, vẫn còn hiệu lực đối với sửa đổi 2018) cho đến nay vẫn chưa được thực hiện. Theo đó: Chức danh phó giáo sư được xếp hạng I theo phân hạng chức danh nghề nghiệp viên chức và hưởng thang, bậc lương tương ứng ngạch chuyên viên cao cấp. Chức danh giáo sư được xếp hạng I theo phân hạng chức danh nghề nghiệp viên chức và hưởng thang, bậc lương tương đương chuyên gia cao cấp.

Phản hồi

Người gửi / điện thoại

Nội dung

 
15-05-2021

Đánh giá

images5342607_my_video_moi3
ba_sche57b288a-ab22-4b92-a4a5-0f3b2fd4cdeb85e2ebd4-b773-4e04-8350-ade5b8771f57
image001
Lượt truy cập
Đang truy cập: 2
Trong ngày: 4
Trong tuần: 403
Lượt truy cập: 365404
Lên đầu trang