CHÍNH TRỊ HỌC
Hệ thống chính trị là một phạm trù quan trọng của khoa học chính trị. Bởi vì nó là tổng hợp những vấn đề của thực tiễn chính trị, của đời sống chính trị, tổng hợp các phương thức thực thi quyền lực chính trị và quyền lực nhà nước.
Mục lục bài viết
HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ
1.1. Một số quan niệm và cách tiếp cận
Hệ thống chính trị là một phạm trù quan trọng của khoa học chính trị. Bởi vì nó là tổng hợp những vấn đề của thực tiễn chính trị, của đời sống chính trị. Hơn nữa những vấn đề đó không phải được xem xét rời rạc, lộn xộn, biệt lập mà là xem xét trong một chỉnh thể có tính hệ thống, có hình thái phát sinh, phát triển, có chủ thể, đối tượng, với các mối quan hệ chức năng, theo những vị trí vai trò nhất định; có "đầu vào" và "đầu ra"; có nội dung và hình thức, có hiện tượng và bản chất...
Vì vậy, hiện nay quan niệm về hệ thống chính trị còn rất khác nhau, phụ thuộc vào khuynh hướng, trường phái chính trị học khác nhau.
Ở phương Tây có hai loại tiếp cận cơ bản, và từ hai loại tiếp cận cơ bản này phát triển thành một số quan điểm khác nhau về hệ thống chính trị (HTCT).
Nhà chính trị học Mỹ D.Istons, người được coi là nhà sáng lập lý thuyết về hệ thống chính trị, trong các tác phẩm "Hệ thống chính trị" (1953), "Giới hạn sự phân tích chính trị" (1965) cho rằng: HTCT giống như một (bộ máy) tự phát triển, tự điều tiết và phản ứng với những tác động từ bên ngoài. Hệ thống đó có "đầu vào". Đó là nơi thu nhận những tác động, yêu cầu, ủng hộ... của môi trường xã hội và văn hóa xã hội quanh nó. Còn "đầu ra" là những quyết định chính trị và hành động chính trị để thực hiện các quyết định đó. Yêu cầu chính trị là dạng đầu tiên của đầu vào. Những yêu cầu có thể rất đa dạng và khác nhau. Có thể là nhu cầu phúc lợi và mở rộng dịch vụ giáo dục, hoặc rút ngắn thời gian làm việc từ vấn đề bảo vệ sức khỏe cho đến quyền tự do công dân... từ vấn đề hôn nhân đến an ninh quốc gia...Dạng đầu vào thứ hai là "sự ủng hộ" của nhân dân.. Sự ủng hộ cũng được biểu hiện rất phong phú, từ nộp thuế, các khoản thu, hoàn thành các nghĩa vụ lao động, quân sự, chấp hành luật pháp, thực hiện các chính sách của nhà nước đến việc tích cực tham gia vào đời sống chính trị để bảo vệ và khẳng định những giá trị chính trị. Không có sự ủng hộ cần thiết, HTCT không thể hoạt động có hiệu quả được.
Các yếu tố "đầu vào" phải được "nạp" một cách hợp lý, đều đặn nếu không HTCT sẽ quá tải.
Các yếu tố này cũng liên quan đến các giai cấp, tầng lớp, lợi ích khác nhau. Cách nhìn nhận các yếu tố này và xử lý chúng cũng rất khác nhau tùy thuộc vào các kiểu HTCT (bản chất) độc tài, hay dân chủ...
Ở "đầu ra", sản phẩm của HTCT cũng có thể rất khác nhau từ hình thức cho đến nội dung. Từ phân phối phúc lợi đến cung cấp dịch vụ, từ điều chỉnh hành vi công dân đến các quyết định về đường lối, chính sách nhà nước. Sản phẩm "đầu ra" này cũng phụ thuộc vào mô hình HTCT.
Khách quan mà nói, "đầu vào" và "đầu ra" là thống nhất với nhau. Nhưng trên thực tế thì không phải lúc nào cũng đạt được điều đó. Sự không hoàn hảo của HTCT ở đâu?
Quan điểm này của D.Istons có hạn chế là không giải thích được các hiện tượng khi kết quả "đầu ra" trái ngược với yêu cầu của "đầu vào". Nói cách khác là vẫn còn tồn tại tình trạng Chính phủ ra những quyết định sai trái, không phù hợp hoặc đi ngược với mong muốn của nhân dân.
Cách tiếp cận này bị phê phán vì nó còn dừng lại ở tính bề mặt của các hiện tượng chính trị.
Một cách tiếp cận khác của nhà chính trị học Mỹ G.Almold cho rằng hệ thống chính trị đó là các kiểu khác nhau của hành vi chính trị, của các tổ chức nhà nước cũng như phi nhà nước. Các kiểu hành vi đó được chia ra hai cấp độ: Thể chế và định hướng.
Nếu như cấp độ thứ nhất chủ yếu là nghiên cứu các thể chế nhà nước và phi nhà nước, thì cấp độ thứ hai là nghiên cứu các quan hệ, cấu trúc, các giá trị chính trị tạo thành văn hóa chính trị.
G.Almold khẳng định rằng, khác với các hệ thống xã hội khác, HTCT được xác định bởi quyền cưỡng chế hợp pháp đối với người công dân. Đó là sức mạnh pháp lý, thâm nhập vào các yếu tố "đầu vào" và "đầu ra", làm nên tính chất đặc biệt, tính bền vững của HTCT.
Một số cách tiếp cận khác cho rằng, HTCT là cơ chế để thực hiện và giải quyết các vấn đề, đồng thời để hoạch định và kiểm soát sự thực hiện các quyết định cũng như kiểm soát các quan hệ quản lý của nhà nước.
Liên quan đến hoạt động (quan hệ) quản lý của nhà nước còn có các cấu trúc phi nhà nước, không chính thức, nhưng có ảnh hưởng đến cơ chế biểu hiện và giải quyết các vấn đề, cũng như ảnh hưởng tới việc hoạch định và thực hiện các quyết sách trong các quan hệ quản lý của nhà nước. Trong các cấu trúc đó, có di sản của lịch sử, tài nguyên địa lý, các tổ chức kinh tế và xã hội, hệ tư tưởng, hệ thống giá trị, phong cách chính trị, quyền lợi của các đảng và các nhóm lợi ích.
Trong các tài liệu khoa học Xô Viết, cho đến giữa những năm 70 thường dùng khái niệm "Các tổ chức chính trị của xã hội" thay vì khái niệm "hệ thống chính trị". "Các tổ chức chính trị của xã hội" bao gồm nhà nước cùng tất cả các cơ quan của nó, các tổ chức phi nhà nước mà trước hết là Đảng Cộng sản Liên Xô, các công đoàn, các tổ chức thanh niên... Đảng Cộng sản Liên Xô được coi là hạt nhân của hệ thống các tổ chức chính trị đó, là người định hướng, cổ vũ và lãnh đạo của xã hội. Trong nhiều trường hợp "hệ thống chuyên chính vô sản" được dùng như là hệ thống chính trị dưới CNXH.
Do quan niệm trong xã hội có giai cấp, không có một hiện tượng nào trong đời sống xã hội lại không bị chi phối vởi chính trị, không thể không liên quan đến chính trị. Quan niệm "rộng" về hệ thống chính trị này đã không phân biệt ranh giới giữa đời sống chính trị và đời sống xã hội; không phân biệt các sinh hoạt mang tính nhà nước và những sinh hoạt đời sống riêng tư, đời sống cá nhân. Nó đồng nhất đời sống chính trị và đời sống xã hội mà kết quả là chính trị hoá, nhà nước mọi mặt đời sống xã hội. Tuy với cách tiếp cận này, một hệ thống chính trị với khả năng kiểm soát và huy động cao được xây dựng và hữu dụng trong các giai đoạn phát triển đặc biệt, như chiến tranh, huy động nguồn lực đất nước vào những công trình lớn…Nhưng càng chính trị hoá và nhà nước hoá dời sống xã hội bao nhiêu càng làm giảm đi tính tích cực chủ động, sáng tạo của người dân bấy nhiêu.
Đầu những năm 80, khái niệm HTCT được khẳng định trong các tài liệu triết học, chính trị học của Liên Xô. HTCT được hiểu theo cách tiếp cận hình thái kinh tế - xã hội, là bộ phận của thượng tầng kiến trúc được quyết định bởi hạ tầng kinh tế, theo kết cấu xã hội giai cấp. HTCT là một kiểu xác định của hình thái kinh tế - xã hội.
Hiện nay, một số nhà khoa học Nga coi hệ thống chính trị như là một tổ hợp phức tạp các thể chế nhà nước, các đảng chính trị, các tổ chức xã hội, trong khuôn khổ đó diễn ra đời sống chính trị và thực thi quyền lực nhà nước, quyền lực xã hội.
Định nghĩa này được coi là quá nhấn mạnh cách tiếp cận của chủ nghĩa thể chế (institututionalizm) và vì thế không coi trọng đúng mức các quan hệ chính trị, các cơ chế và các nguyên tắc vận hành của hệ thống chính trị, cũng như các quan hệ với các cấu trúc xã hội khác như tình trạng tâm lý, tư tưởng giới cầm quyền, và lãnh tụ chính trị…
Làm rõ khái niệm HTCT có ý nghĩa phương pháp luận rất lớn trong việc phân tích sự quản lý xã hội và quản lý chính trị ở các khu vực các lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội trên thế giới.
HTCT tác động như một chỉnh thể trong việc tổ chức mối quan hệ qua lại với những hệ thống khác: hệ thống kinh tế, văn hóa, sắc tộc, tôn giáo. Ngày nay, đời sống chính trị thế giới tương tự như trong đời sống kinh tế đã đặt ra yêu cầu chức năng hóa hệ thống chính trị dân tộc trong các vấn đề liên quan đến những quan hệ với HTCT rộng lớn hơn như khu vực hoặc toàn cầu.
Các nhân tố ảnh hưởng đến HTCT quốc gia là địa lý và điều kiện kinh tế - xã hội. Ví dụ Anh, Mỹ, châu Âu... Nhật Bản, các nước khác nhau ở các khu vực khác nhau có những sự khác biệt nhất định trong quá trình hình thành và tác động của các HTCT.
Các nhân tố kinh tế - xã hội tác động rõ rệt đến quá trình chính trị. Thứ nhất, chúng ảnh hưởng đến vị trí, phân bổ quyền lực chính trị. Thứ hai tạo điều kiện cho ổn định chính trị, xã hội. Các cuộc khủng hoảng kinh tế, giảm sút sản xuất, hạ thấp mức sống dân cư luôn luôn đưa đến sự tan rã của HTCT.
1.2. Định nghĩa hệ thống chính trị
Chúng ta có thể định nghĩa: HTCT là tổ hợp có tính chỉnh thể các thế chế chính trị (political institutes - các cơ quan quyền lực nhà nước, các đảng chính trị các phong trào xã hội, các tổ chức chính trị - xã hội...) được xây dựng trên các quyền và các chuẩn mực xã hội, phân bố theo một kết cấu chức năng nhất định, vận hành theo những nguyên tắc, cơ chế và quan hệ cụ thể, nhằm thực thi quyền lực chính trị.
Theo cách tiếp cận hệ thống trong định nghĩa nêu trên, cấu trúc của HTCT được chia ra các bộ phận, mỗi bộ phận là một tiểu hệ thống như:
- Các thể chế (tổ chức), còn gọi là tiểu hệ thống thể chế.
- Các quan hệ chính trị, còn gọi là tiểu hệ thống quan hệ.
- Các cơ chế, còn gọi là tiểu hệ thống cơ chế.
- Các nguyên tắc vận hành, còn gọi là tiểu hệ thống các nguyên tắc vận hành.
2.1. Các thể chế chính trị (tiểu hệ thống thể chế)
Trong hệ thống chính trị, có các thể chế quan trọng sau: Nhà nước, đảng chính trị, các phong trào xã hội, các tổ chức chính trị - xã hội, hệ thống bầu cử…Có thể nói tiểu hệ thống này là cốt lõi của hệ thống chính trị, trên cơ sở tiểu hệ thống này mà các tiểu hệ thống khác được xác lập và hoạt động.
Vì vậy "thể chế chính trị" là khái niệm có vị trí quan trọng trong khoa học chính trị.
Trước khi tiếp tục nghiên cứu cấu trúc của hệ thống chính trị, chúng ta cần làm rõ khái niệm "thể chế chính trị".
Theo cuốn Đại từ điển tiếng Việt(1) thì "thể chế" đồng nghĩa với "thiết chế" và được giải nghĩa là những quy định, luật lệ của một chế độ xã hội.
Trong các ngôn ngữ như tiếng Anh, tiếng Nga, tiếng Pháp... "thể chế" (Institute) được xem xét như là sự quy định, sự đặt ra luật lệ, là tổng hợp những chuẩn mực pháp lý trong các quan hệ xã hội, sự thiết lập các tổ chức nhà nước và xã hội, là hình thức này hay hình thức khác của cấu trúc xã hội.
Như vậy khái niệm "thể chế" nói chung được hiểu theo ba cấp độ:
Thứ nhất, những quy định, những chuẩn mực, quy chế, quy phạm luật lệ phản ánh mối quan hệ chức năng giữ các bộ phận của một tổng thể - chỉnh thể (trong đời sống xã hội).
Thứ hai, thể chế được coi là những dạng thức, những cấu trúc tổ chức phân bố theo những chức năng của hệ thống xã hội.
Thứ ba, thể chế được hiểu tổng hợp gồm cả hai cấp độ mà cấp độ này làm cơ sở để xác định cấp độ kia.
Một cách hiểu khái quát hơn, coi “thể chế” là khung khổ trong đó quy định “luật chơi”, “sân chơi” và “người chơi”
Thể chế phân định mối quan hệ giữa cái bộ phận và cái tổng thể, nhưng mối quan hệ giữa "thể chế" với tư cách là một bộ phận của một "tổng thể" có ý nghĩa tương đối, tùy theo cái "tổng thể" mà chúng ta xem xét. Trong mối quan hệ này "tổng thể" là một tổng thể, trong mối quan hệ khác "tổng thể" chỉ đóng vai trò là một thể chế mà thôi.
Từ các cách tiếp cận trên về "thể chế" người ta đưa vào khoa học chính trị, xây dựng thành khái niệm "thể chế chính trị" để nghiên cứu các hiện tượng và các quá trình chính trị.
Vậy "Thể chế chính trị" một mặt là những quy định, quy chế, chuẩn mực, quy phạm, nguyên tắc, luật lệ... nhằm điều chỉnh và xác lập các quan hệ chính trị, các hành vi chính trị. Mặt khác nó là những dạng thức cấu trúc tổ chức, các bộ phận chức năng cấu thành của một chủ thể chính trị, hay hệ thống chính trị.
Do tính phức tạp của khái niệm thể chế chính trị, khi sử dụng khái niệm này cần phải linh hoạt, tính tới những sự biến đổi của khái niệm trong sinh hoạt học thuật hoặc đời sống chính trị. Đặc biệt cần phân biệt khái niệm thể chế chính trị với các khái niệm gần gũi với nó như "chính thể", "chế độ chính trị" v.v...
Thể chế chính trị xuất hiện trong đời sống xã hội là một đòi hỏi khách quan, phản ánh sự phát triển của thượng tầng kiến trúc trong sự phù hợp với hạ tầng kinh tế. Thể chế chính trị là phương tiện để điều chỉnh, kiểm soát các quan hệ, hành vi chính trị và thực thi quyền lực chính trị.
Các thể chế chính trị là những phạm trù lịch sử. Chúng hình thành trong những điều kiện kinh tế - xã hội nhất định. Với tư cách là các bộ phận hợp thành cơ thể xã hội, các thể chế chính trị, trong quá trình phát triển, vừa đổi mới, hoàn thiện vừa đảm bảo tính liên tục và kế thừa.
Các thể chế chính trị có những chức năng và nhiệm vụ cơ bản sau:
- Đảm bảo mối quan hệ, vai trò, chức năng giữa các bộ phận của hệ thống.
- Quy định các quan hệ và hành vi của con người trong các lĩnh vực chính trị nhất định.
- Tổng hợp các vai trò mà con người, cộng đồng người thực hiện trong khuôn khổ các thể chế đó.
- Hình thành các chuẩn mực, các tiêu chí chính trị.
Trong hệ thống chính trị, vị trí, vai trò, chức năng của các thể chế chính trị rất khác nhau. Những thể chế quan trọng mà chúng ta cần quan tâm nghiên cứu là: Các thể chế nhà nước (đồng thời là các thể chế chính trị), đảng chính trị, các phong trào xã hội và các tổ chức chính trị - xã hội, hệ thống bầu cử...
Tiểu hệ thống thể chế ở ba mô hình hệ thống chính trị phổ biến.
- Mô hình bên phải: Cộng hòa Tổng thống
- Mô hình bên trái với mũi tên đơn là cộng hào đại nghị, với mũi tên kép là cộng hòa hỗn hợp
2.1.1. Các thể chế nhà nước (đồng thời là các thể chế chính trị)
Nhà nước là trung tâm của hệ thống chính trị có vị trí độc quyền kiểm soát lãnh thổ, thay mặt toàn xã hội thực hiện chính sách đối nội và đối ngoại, làm luật, các hoạt động điều tiết cần thiết cho toàn xã hội, thu thuế, các khoản thu khác, quyền kiểm soát việc chấp hành pháp luật và các chuẩn mực pháp lý khác quyền sử dụng cưỡng bức thể chất và các hình phạt khác. Nhà nước là trung tâm của hệ thống chính trị, do đó mọi lợi ích của các giai cấp, các lực lượng xã hội muốn hiện thực hoá đều phải thông qua nhà nước.
Nhà nước được tổ chức thành ba cơ quan quyền lực: Lập pháp, hành pháp, tư pháp và hệ thống chính quyền địa phương. Phương thức tổ chức nhà nước thay đổi tuỳ thuộc vào các điều kiện kinh tế - xã hội của từng giai đoạn lịch sử và từng khu vực. Trong hệ thống chính trị nhà nước thực hiện hai chức năng cơ bản: chức năng chính trị (giai cấp) và chức năng xã hội (công quyền).[1]
Riêng việc thông qua các đạo luật là một quá trình phối hợp, đấu tranh, kiềm chế lẫn nhau rất phức tạp giữa hai nhánh quyền lực lập pháp và hành pháp, mà đằng sau hai cơ quan này là ảnh hưởng của các lực lượng chính trị - xã hội.
+ Cơ cấu tổ chức của nghị viện
Việc lựa chọn mô hình nghị viện phụ thuộc vào nhiều yếu tố như hình thức nhà nước, truyền thống chính trị... ở từng nước.
Các nghị viện có thể được kết cấu từ một viện hoặc hai viện. Việc chia nghị viện thành hai viện có lý do lịch sử và chính trị. Thượng viện thường đại diện cho lợi ích của các chủ thể quốc gia (bang - ở các nhà nước liên bang, tỉnh ở các nhà nước đơn nhất) hạ viện đại diện cho lợi ích của cử tri. Đại diện cho các chủ thể quốc gia và đại diện cho cử tri, nhiều lúc có những cách nhìn nhận rất khác nhau về một vấn đề. Lơị ích chung của quốc gia và địa phương không phải lúc nào cũng thống nhất với lợi ích của công dân. Như vậy, việc tổ chức nghị viện hai viện, một mặt, cân bằng được lợi ích và ý chí của cử tri, tức nhân dân (hạ viện) và lợi ích và ý chí của các chủ thể quốc gia, các cơ quan nhà nước (thượng viện); mặt khác để hai viện kiềm chế lẫn nhau và một số lý do cụ thể khác.
Trong quốc hội vị trí của mỗi viện khác nhau, thông thường, vai trò của hạ viện lớn hơn thượng viện. Ngoài ra vai trò của các vị trí như chủ tịch, các uỷ ban, các đảng đoàn…cũng rất khác nhau. Tất cả các đảng chính trị đều cố gắng giành nhiều ghế trong nghị viện, đặc biệt trong các nước cộng hoà đại nghị, đảng hoặc liên minh các đảng giành được đa số ghế trong hạ viện sẽ có quyền thành lập chính phủ và trở thành đảng hoặc liên minh cầm quyền.
Trong các nền chính trị nghị trường, vai trò của các đại biểu (nghị sĩ) rất quan trọng. Họ là những người liên hệ chặt chẽ với nhân dân (cử tri) và là người cử tri tìm đến đầu tiên khi muốn biểu đạt một ý nguyện với nhà nước. Một trong những hoạt động rất sôi động trong đời sống chính trị nhiều nước phương Tây là vận động hành lang (lobby). Hoạt động này được coi là một kênh quan trọng nối nhà nước với người dân hoặc các nhóm dân cư. Tuy nhiên nó có thể làm phân tán các mục tiêu của chính sách, hoặc nuôi dưỡng tham nhũng. Vì vậy, hiện nay, vận động hành lang đã và đang được luật hoá và minh bạch hoá
Ở các nước đa đảng, trong nghị viện có đảng đoàn đại biểu của các đảng tham gia nghị viện. Những đại biểu thuộc đảng đoàn không tham gia Chính phủ là đại biểu đối lập. Ở các nước hai đảng thì thường xuyên có một đảng cầm quyền và một đảng đối lập (Anh, Mỹ...). Các nghị sĩ, theo nguyên tắc phải bỏ phiếu theo lập trường của đảng mình. Khi được phép bày tỏ lập trường riêng họ phải cân nhắc bỏ phiếu theo yêu cầu của đảng mình, hay của cử tri.
Trong các nước dân chủ nghị trường, Quá trình tổ chức ra quốc hội và quá trình thực hiện các chức năng nhiệm vụ của nó rất phức tạp và tốn kém. Vì vậy các quyết dịnh của cơ quan này là sản phẩm của một quá trình sàng lọc công phu, có khả năng loại trừ các quyết định chủ quan, dễ dãi. Mặt khác, dù quốc hội là nơi diễn ra cuộc đấu tranh giữa các đảng phái, các nhóm lợi ích, các nhóm xã hội khác nhau, nhiều khi rất căng thẳng. Nếu nói về những thất bại của nền dân chủ hiện đại (dân chủ đa số) thì rất nhiều trường hợp được chứng minh ở diễn đàn các nghị viện. Ở nhiều nước hoạt động của quốc hội còn mang nặng tính đảng phái, đo đó, nhiều khi dẫn đến tình trạng chuyên quyền và lạm quyền của "đa số" ích kỷ, lạc hậu, bảo thủ…nấp dưới hình thức bỏ phiếu theo "kỷ luật đảng". Mặt khác, các thủ thuật kỹ xảo chính trị được sử dụng nhiều làm giảm tính khoa học; chi phí bầu cử cao làm cho các tầng lớp dưới khó đưa được đại diện của mình vào quốc hội.
+ Cơ quan hành pháp
Dù tên gọi khác nhau cơ quan hành pháp có chức năng là thực thi quyền hành pháp (thi hành pháp luật và quản lý hành chính nhà nước - lập quy) và thương được gọi là chính phủ.
Cơ cấu tổ chức cơ quan hành pháp phụ thuộc vào mô hình nhà nước, cộng hòa tổng thống hay cộng hòa đại nghị. Đối với các nước cộng hòa tổng thống, đứng đầu thể chế hành pháp là tổng thống (điển hình là Mỹ). Ở các nước cộng hòa đại nghị (Đức, Italia...) thì đứng đầu hành pháp là Thủ tướng. Chính phủ ban hành các văn bản quy phạm pháp luật khác nhau nhằm triển khai thực hiện các đạo luật đã được nghị viện thông qua sao cho có lợi nhất cho quốc gia.
Những văn bản này không những chỉ bổ sung mà còn thay thế cả pháp luật trong điều chỉnh những vấn đề khác nhau của đời sống xã hội. Như vậy quyền đưa ra chính sách cụ thể nằm trong tay ngành hành pháp. Các cơ quan trong bộ máy hành pháp có thể đưa ra các luật lệ riêng phản ánh những quan điểm của mình gọi là các văn bản quy phạm pháp luật.
Thông qua một số quyền hạn và nhiệm vụ được Hiến pháp thừa nhận, cơ quan hành pháp tác động gây ảnh hưởng đối với quốc hội như: Quyền đưa ra sáng kiến lập pháp, quyền sáng kiến về luật ngân sách, yêu cầu triệu tập họp Quốc hội bất thường, đề nghị giải tán quốc hội (trong các nước cộng hòa đại nghị). Ở các nước cộng hòa tổng thống (Mỹ), tổng thống có quyền phủ quyết đối với các đạo luật mà Quốc hội đã thông qua có quyền gửi thông điệp của Tổng thống cho Quốc hội, trong đó chứa đựng nội dung các dự án luật do Tổng thống đề nghị.
Do vị trí của mình, trên thực tế, đảng nào nắm quyền hành pháp thì đảng đó là đảng cầm quyền. Do đó các đảng chính trị đều cố gắng nắm chính phủ, tức giành ghế tổng thống (ở cộng hoà tổng thống và cộng hào hỗn hợp), giành đa số ở hạ viện (trong cộng hoà đại nghị) để có quyền lập chính phủ.
Ngày nay, tuy có nhiều triết lý khác nhau về quản lý nhà nước (thực thi quyền hành pháp), nhưng sự gia tăng quyền lực, lộng quyền, sự phình to về cơ cấu tổ chức và biên chế của bộ máy hành pháp, quan liêu tham nhũng…đặc biệt là ở các nước đang phát triển, là những vấn đề đặt ra cho các chính phủ, chúng đang thách thức các giá trị dân chủ và tiến bộ xã hội.
+ Cơ quan tư pháp
Cơ quan tư pháp hay là ngành tư pháp là một trong ba thể chế quyền lực quan trọng của nhà nước.
Cơ quan tư pháp có các chức năng sau:
Yêu cầu của quyền tư pháp là tính độc lập và tính chuyên môn cao. Để có một hệ thống tư pháp công minh và độc lập, ở nhiều nước thực hiện sự "bổ nhiệm" chứ không bầu các thẩm phán. Bởi vì yêu cầu đối với các thẩm phán là sự hiểu biết luật pháp và năng lực xét xử chứ không phải là được lòng các nhóm cử tri khác nhau. Mặt khác, các nhà nước đều tạo các điều kiện để các thẩm phán ít chịu ảnh hưởng nhất từ các cơ quan lập pháp và hành pháp, như nhiệm kỳ suốt đời (Mỹ), lương cao và ổn định…Quyền tư pháp tuy được coi là một quyền "yếu" nhưng đóng vai trò quyết định trong thực hiện các lý tưởng dân chủ, pháp quyền. Bởi vì dù luật pháp có nhiều và tốt đến đâu, hành pháp có hiệu lực, hiệu quả đến đâu, nhưng tư pháp không công minh thì tính hiệu lực, hiệu quả nói chung đều mất hết ý nghĩa.
2.1.2. Các Đảng phái chính trị
Đảng chính trị lúc đầu là sản phẩm của hoạt động nghị trường. Khi phong trào công nhân trở thành một phong trào chính trị độc lập, xuất hiện các đảng công nhân, không gắn với hoạt động nghị trường. Sau này ở các nước thuộc địa, xuất hiện một loại đảng chính trị gắn với phong trào yêu nước.
Lênin cho rằng đảng chính trị là tập hợp những người có tổ chức nhất của một giai cấp, có ý thức nhất về quyền lợi của giai cấp mình, có quyết tâm chiến đấu vì lợi ích của giai cấp.
Đảng của giai cấp công nhân là đảng tiên phong, chiến đấu vì sứ mệnh của giai cấp vô sản, giải phóng giai cấp và giải phóng nhân loại.
Trên quan điểm này đã hình thành nhiều Đảng Cộng sản và công nhân trên thế giới.
Trong quá trình phát triển của phong trào giải phóng dân tộc thế kỷ XX, xuất hiện các đảng chính trị đại diện cho phong trào yêu nước ở các nước thuộc địa và phụ thuộc. Các đảng này co hai khuynh hướng: Khuynh hướng thứ nhất, chịu ảnh hưởng của chủ nghĩa Mác - Lênin và phong trào công nhân quốc tế; khuynh hướng thứ hai, theo chủ nghĩa dân tộc.
Ngày nay, trên thế giới tồn tại những quan niệm khác nhau và tồn tại các kiểu đảng chính trị khác nhau. Ở Mỹ, ở phương Tây và các nước có chế độ đại nghị, nhiều ý kiến cho rằng: Đảng chính trị là một nhóm cá nhân, được tổ chức lại nhằm giành chiến thắng trong các cuộc bầu cử, để điều hành chính phủ và quyết định chính sách công cộng. Các đảng như vậy gọi là đảng bầu cử. Mục tiêu là giành ghế trong nghị viện và các vị trí quyền lực.
Việc ra đời của các đảng chính trị, gắn liền với sự phát triển, biến đổi cơ cấu kinh tế - xã hội. Mỗi một đảng chính trị thường đại diện cho một lực lượng xã hội nhất định. Sự tồn tại của các đảng, tạo nên nét đặc trưng của cơ cấu xã hội chính trị của HTCT. Vì vậy người ta còn dùng số lượng các đảng để gọi tên các chế độ chính trị hoặc gắn với HTCT nhằm phản ánh đặc trưng HTCT: Chế độ một đảng, chế độ hai đảng, chế độ đa đảng v.v... hoặc HTCT một đảng, HTCT đa đảng v.v...Các chế độ này ra đời theo những điều kiện kinh tế - xã hội, tương quan giai cấp, dân tộc nhất định. Không phụ thuộc vào ý chí chủ quan của người nào.
Các đảng chính trị khác nhau, các phong trào chính trị - xã hội khác nhau sẽ đóng vai trò khác nhau trong đời sống chính trị của nước này hay nước khác. Có thể chúng trở thành đảng cầm quyền, thành lập chính phủ từ đội ngũ đảng viên của mình, giữ vị trí chủ đạo trong các cơ quan lập pháp, có ảnh hưởng và uy tín lớn ở tất cả các tầng lớp khác nhau của xã hội. Một số đảng khác ở vị trí đối lập, chiếm giữ ít ghế trong cơ quan lập pháp hoặc có thể không có ghế nào, không có ảnh hưởng đáng kể đến đời sống chính trị, xã hội đất nước.
Vai trò các đảng chính trị trong đời sống chính trị hiện nay
Đảng chính trị bao giờ cũng gắn liền với việc đấu tranh giành, giữ và sử dụng chính quyền. Chức năng của các đảng là:
- Về chính trị: vạch ra đường lối, cương lĩnh, chương trình hành động.
- Về tổ chức: Tổ chức đảng và cử người vào bộ máy nhà nước để thực hiện các mục tiêu của mình.
- Về tư tưởng: tuyên truyền, lôi kéo các bộ phận dân cư khác hưởng ứng, đi theo hệ tư tưởng của mình.
Cụ thể, tùy thuộc từng loại đảng và các chế độ nhà nước mà các đảng có vai trò phương thức hoạt động khác nhau. Ở các nước đa đảng, hoạt động quan trọng nhất của các đảng là hoạt động vận động tranh cử. Bởi đây là con đường duy nhất để nắm chính quyền. Ngoài ra còn một số hoạt động khác như: Tác động vào ngành lập pháp nhằm chiếm nhiều ghế, giành các ghế lãnh đạo trong nghị viện tìm mọi cách tạo ảnh hưởng đến quá trình lập pháp và các quá trình ra quyết định của cơ quan này.
Đối với hành pháp: Mục tiêu của các đảng là giành vị trí nguyên thủ quốc gia, đứng đầu nội các và các chức vụ chính quyền, giành quyền quyết định hệ thống quyền lực nhà nước và các chính sách. Đảng chính trị là một đặc điểm nổi bật của chính trị hiện đại.
2.1.3. Các phong trào xã hội, các tổ chức chính trị - xã hội[2]
Các phong trào và tổ chức chính trị - xã hội khác với các đảng chính trị ở mục tiêu định hướng, hình thức tổ chức và phương thức hoạt động.
Trong xã hội hiện đại vai trò của các phong trào xã hội, các tổ chức chính trị - xã hội rất lớn và không ngừng tăng lên, có nhiều phong trào và tổ chức có vai trò và chức năng quan trọng trong HTCT (ở nước ta, những tổ chức như vậy gọi là các tổ chức chính trị - xã hội). Đây là một bộ phận quan trọng của xã hội công dân, đang tích cực cùng nhà nước và HTCT hiện thực hóa các lợi ích và nhân cách cá nhân cũng như của cộng đồng, cân bằng mối quan hệ giữa nhà nước và xã hội. Các tổ chức này là cơ sở xã hội của các đảng chính trị, có ảnh hưởng mạnh mẽ và quan trọng trong việc hoạch định chính sách của nhà nước và khuynh hướng chính trị của các đảng.
2.1.4. Một thể chế có chức năng quan trọng trong HTCT là hệ thống các phương tiện thông tin đại chúng (còn gọi là hệ thống các phương tiện truyền thông).
Các phương tiện thông tin đại chúng hoạt động chủ yếu với hai tư cách: Một là, các cơ quan phát ngôn, thông tin tuyên truyền của nhà nước, của các đảng, của các tổ chức chính trị -xã hội; hai là một hệ thống độc lập, hoạt động theo luật pháp mang tính nghề nghiệp. Với tư cách thứ nhất, các phương tiện thông tin đại chúng được coi là bộ phận cấu thành các tổ chức mà chúng trực thuộc. Với tư cách thứ hai, các phương tiện thông tin đại chúng được coi là một bộ phận độc lập của hệ thống chính trị. Dù với tư cách nào các phương tiện thông tin đại chúng cũng giữ vai trò quan trọng trong hệ thống chính trị.
Hiện nay vai trò của phương tiện thông tin đại chúng đang tăng lên cùng với sự đổi mới về khoa học và công nghệ. PTTTĐC tác động vào đời sống chính trị như một kênh quan trọng hình thành và biểu thị ý kiến xã hội, tính công khai và kiểm soát quyền lực chính trị.
Phương tiện thông tin đại chúng có nhiều khả năng trong việc thông tin dư luận xã hội, những sự kiện chính trị quan trọng và nóng hổi trong và ngoài nước, về hoạt động, quan điểm và hành động của các cơ quan nhà nước, các đảng cầm quyền hay đối lập, của các phong trào xã hội...Ngày nay, phương tiện thông tin đại chúng có vai trò rất lớn trong việc hình thành các hình ảnh chính trị, các biểu tượng mang các giá trị văn hoá, hình thành các nguồn lực xã hội và nguồn lực con người…là những yếu tố cơ bản tạo nên các "quyền lực mềm" trong đời sống chính trị, xã hội.
2.1.5. Vị trí đặc biệt trong HTCT là các thể chế tôn giáo
Sự tác động của tôn giáo đến đời sống chính trị trước hết thông qua những công dân theo tôn giáo. Chỉ có những thể chế tôn giáo mới được coi là một bộ phận của HTCT. Trong lịch sử chính trị đã từng có xung đột giữa tôn giáo và Nhà nước. Ở nhiều nước, sau những cuộc đụng độ đã dẫn đến phân chia quyền lực (thế quyền và thần quyền). Quan hệ giữa tôn giáo và nhà nước đang có những biểu hiện rất đa dạng và phức tạp.
Ở các nước, đặc biệt là Trung Cận Đông, Ả rập, châu Phi, Mỹ la tinh, các tôn giáo đóng vai trò rất lớn, trong đời sống chính trị, nhất là các quốc gia Hồi giáo. Ngược lại ở khá nhiều nước, các tổ chức tôn giáo được hoạt động nhưng không phải là một bộ phận cấu thành của hệ thống chính trị.
2.1.6. Hệ thống bầu cử cũng là một thể chế quan trọng của hệ thống chính trị
Trong điều kiện một nhà nước dân chủ, bầu cử là con đường cơ bản để tổ chức ra các cơ quan quyền lực nhà nước, chính đáng hóa quyền lực chính trị, để nhân dân chọn ra người xứng đáng, thay mặt mình thực thi quyền lực nhà nước và cũng là phương thức tốt nhất để các đảng chính trị tuyển chọn những nhà chính trị tiềm năng.
2.2. Các quan hệ chính trị
Quan hệ chính trị là yếu tố kết nối các bộ phận chức năng, các cấu trúc của HTCT.
Vai trò đặc biệt của các quan hệ chính trị là ở chỗ nó biểu đạt cân bằng lợi ích, sự trung lập, trạng thái thực tế chấp nhận được giữa các lợi ích, các nhóm, các giai cấp, các dân tộc trong một hệ thống quyền lực công cộng và nhân danh quyền lực công cộng để bảo vệ, duy trì sự cân bằng ấy.
Trong HTCT có nhiều loại quan hệ. Loại thứ nhất loại quan hệ chính trị trong đời sống chính trị, những quan hệ này đan xen, đa dạng, nhiều tầng, nhiều chiều, trực tiếp và gián tiếp. Những quan hệ này thực chất là nền tảng xã hội và môi trường văn hóa của hoạt động chính trị. Những quan hệ chính trị cấu thành hệ thống khi chúng có vai trò trực tiếp duy trì sự tồn tại và hoạt động của HTCT. Các quan hệ đó có thể được xếp như sau:
2.2.1. Quan hệ các chủ thể quyền lực và người được ủy quyền
Đó là quan hệ giữa công dân và nhà nước, giữa đảng viên của một đảng chính trị với tổ chức đảng của họ, giữa hội viên, thành viên của các tổ chức chính trị - xã hội với tổ chức của mình. Trong quan hệ này, người được uỷ quyền, thực chất không có quyền lực mà nhận quyền lực từ các chủ thể quyền lực và thực thi quyền lực đó. Trong quan hệ này, các chủ thể quyền lực, khách quan mà nói, quyết định hình thức tổ chức, nội dung và phương thức hoạt động của các cơ quan được uỷ quyền.
2.2.2. Quan hệ theo chiều ngang của hệ thống
Đây là mối quan hệ cùng cấp, giữa các thể chế cấp Trung ương với cấp Trung ương. Ví dụ giữa các cơ quan lập pháp tối cao (Quốc hội) hành chính tối cao (Chính phủ) và tư pháp, tối cao (Tòa án tối cao), quan hệ giữa các chủ thể chính trị trong hệ thống. Đây là mối quan hệ vừa quy định vai trò chức năng của các thể chế chính trị vừa thống nhất, phối hợp hành động, vừa ràng buộc, kiềm chế lẫn nhau.
2.2.3. Quan hệ dọc
Quan hệ giữa các cơ quan quyền lực Trung ương với các cơ quan quyền lực địa phương và cơ sở (theo chiều dọc). Bản chất của quan hệ này là phân cấp và phân quyền trong thực thi quyền lực chính trị và quyền lực nhà nước sao cho đảm bảo sự thống nhất toàn vẹn lãnh thổ và chủ quyền quốc gia vừa tạo điều kiện cho sự năng động chủ động của các địa phương và cơ sở.
2.2.4. Quan hệ bên trong và bên ngoài
Quan hệ HTCT của một quốc gia với các hệ thống chính trị bên ngoài. Có thể có những quan hệ khác nhau giữa các thể chế độc lập của hệ thống chính trị. Nhưng quan trọng nhất, trong mối quan hệ này là quan hệ giữa các nhà nước quốc gia dân tộc với nhau.
2.3. Các cơ chế vận hành của hệ thống chính trị
Cơ chế tổng hợp các phương thức vận hành của HTCT. Cơ chế vừa phản ánh bản chất chế độ chính trị vừa chi phối các hoạt động của hệ thống. Có bốn cơ chế cơ bản sau:
2.3.1. Cơ chế mệnh lệnh hành chính (đi kèm là một hệ thống công cụ cưỡng bức, trừng phạt). Cơ chế này có trong bất kỳ tổ chức nào của hệ thống chính trị, nhưng rõ nhất và mang tính đặc trưng là trong thực thi quyền lực nhà nước.
2.3.2. Cơ chế thể chế (xây dựng hệ thống các tổ chức). Khi các tổ chức được đặt đúng vị trí, xác định rõ các chức năng vai trò nhiệm vụ của chúng, đồng thời các cơ chế, các quan hệ thông suốt, hệ thống chính trị vận hành đúng nguyên tắc…Khi đó quá trình thực thi quyền lực chính trị và quyền lực nhà nước diễn ra như một quá trình tự nhiên, hệ thống chính trị tự hoạt động, tự điều chỉnh và tự hoàn thiện.
2.3.3. Cơ chế tư vấn là tổng hợp các phương thức làm thay đổi nhận thức của các đối tượng thực thi quyền lực để thay đổi hành vi của họ.
2.3.4. Cơ chế kiểm soát quyền lực (đảm bảo cho các cơ quan quyền lực thực thi đúng thẩm quyền).
Bốn cơ chế này có thể được vận hành đồng thời, có thể riêng biệt tùy theo các quan hệ giữa chủ thể chính trị và đối tượng chịu tác động của quyền lực chính trị. Các cơ chế thể hiện được trình độ thuần thục của hệ thống và sự trưởng thành về văn hóa chính trị.
2.4. Các nguyên tắc vận hành của hệ thống chính trị
Mỗi hệ thống chính trị có những nguyên tắc và cơ chế vận hành riêng. Dựa trên những nguyên tắc này mà các quan hệ, hành vi chính trị được định hướng và tạo thành một bộ phận hữu cơ của hệ thống. Cũng cần nói thêm rằng giữa "nguyên tắc" và "cơ chế" không có những bức tường thành ngăn cách. Nói cách khác giới hạn giữa các khái niệm đó chỉ là tương đối.
Ngày nay, chỉ trừ một số rất ít nước dưới chế độ quân chủ thế tập, hầu hết ở các nước đều phổ biến một số nguyên tắc sau:
2.4.1. Quyền lực chính trị thuộc về nhân dân
Nguyên tắc này khẳng định tính khách quan quyền lực của nhân dân với tư cách là chủ thể của quá trình lao động sản xuất xã hội, là những người sáng tạo ra các giá trị xã hội (nguồn gốc của quyền lực), ủy một phần quyền của mình thông qua những người đại diện để tổ chức và thực thi quyền lực chính trị quyền lực nhà nước. Từ nguyên tắc này, phát sinh một loạt các nguyên tắc sinh hoạt và ứng xử chính trị khác liên quan đến việc đảm bảo quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân.
2.4.2. Ủy quyền có điều kiện và có thời hạn
Nguyên tắc này xác định ai là người có thể được ủy quyền và ủy quyền trong bao lâu. Để đảm bảo nguyên tắc này phải xây dựng thể chế bầu cử bao gồm lựa chọn các ứng viên, thể thức bầu cử và thủ tục truất quyền khi cần thiết.
Do trong xã hội có các giai cấp, các tầng lớp, các nhóm và từng con người khác nhau với những định hướng giá trị chính trị khác nhau nên ý kiến về các vấn đề đều có thể khác nhau. Vì vậy để đảm bảo điều hòa những khác biệt đó phải có nguyên tắc đồng thuận xã hội, tức là:
2.4.3. Nguyên tắc dân chủ
Nguyên tắc này thực chất là tạo các điều kiện kinh tế - xã hội và pháp lý để dân tham gia ngày càng nhiều và thực chất vào công việc của nhà nước và xã hội, tự quyết định vận mệnh của mình thông qua nhà nước, bằng nhà nước. Cũng cần nói thêm rằng, nội hàm của nguyên tăc dân chủ là tương đồng với nguyên tắc tập trung dân chủ (демократический цетрализм)
Những biểu hiện cụ thể của nguyên tắc này là:
2.4.4. Nguyên tắc tập trung - phân quyền (phân quyền hợp lý)
Đây là hai mặt của một vấn đề trong đời sống chính trị không có tập trung quyền lực đủ mức thì không có quyền lực chính trị cũng như quyền lực nhà nước. Mặt khác, không thực hiện sự phân quyền (phân lập, phân công, phân cấp, ủy quyền, tản quyền…) thì cũng không thể thực hiện được quyền lực chính trị hoặc quyền lực nhà nước. Tập trung (thống nhất) quyền lực thể hiện:
Trên cơ sở những thống nhất trên đây, mà biểu hiện ra là tính đồng thuận, tính thỏa hiệp xã hội, sẽ thực hiện sự phân quyền. Sự phân quyền mà sắc thái của nó được các tác giả mô tả và nhấn mạnh rất khác nhau như "phân chia" "phân công" "phân quyền" "phân cấp" "tản quyền" v.v... Điều muốn nói đến giao cho các chủ thể khác nhau theo chiều ngang (Trung ương - Trung ương) hay theo chiều dọc (Trung ương - địa phương) những nhiệm vụ có tính chức năng của nhà nước (chức năng chính trị hoặc xã hội).
Vì vậy phân quyền là một biểu hiện tất yếu của chỉnh thể quyền lực chính trị và quyền lực nhà nước trong tính phức tạp, đa dạng, trong trạng thái vận động của nó. Không có sự phân quyền, trong điều kiện xã hội hiện đại, quyền lực chính trị, quyền lực nhà nước sẽ không được thực thi.
Cần lưu ý là HTCT ở mỗi nước khác nhau có thể có những mô hình, cấu trúc, vận hành khác nhau. Ở một số nước vấn đề tôn giáo rất đặc biệt, nhưng ở nhiều nước khác thì không đến mức như vậy. Vì thế về HTCT không những có những quan niệm khác nhau mà còn có cách tổ chức và vận hành khác nhau. Mặc dù vậy, vấn đề HTCT vẫn bị chi phối bởi những quy luật chung, có tính phổ biến, nếu không tuân thủ những yếu tố đó không thể hiểu các HTCT cụ thể được.
CÂU HỎI TRƯỚC KHI NGHE GIẢNG:
- Anh (chị) thử đưa ra một quan niệm về hệ thống. Thử hình dung về hệ thống chính trị.
- Hệ thống chính trị có chức năng gì?
- Có những bộ phận nào trong hệ thống chính trị ?
- Những căn cứ nào để thiết lập một hệ thống chính trị ?
CÂU HỎI ÔN TẬP:
- Hãy so sánh các cách tiếp cận (quan niệm) khác nhau về hệ thống chính trị ?
- Cấu trúc của hệ thống chính trị ?
- Phân tích vị trí, vai trò chức năng của các bộ phận cấu thành của hệ thống chính trị.
- Thử so sánh cách tổ chức và hoạt động của hệ thống chính trị các nước trên thế giới với hệ thống chính trị nước ta?
TÀI LIỆU THAM KHẢO:
- Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb Chính trị quốc gia, H. 2001. tr. 123 – 147.
- Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb Chính trị quốc gia, H. 2006. tr.116 – 139.
-Hoàng Chí Bảo chủ biên: Hệ thống chính trị ở cơ sở nông thôn nước ta hiện nay. Nxb Chính trị quốc gia, H. 2004. Tr. 5-30
- Đặng Đình Tân (chủ biên): Thể chế đảng cầm quyền ở nước ta, một số vấn đề lý luận và thực tiễn Nxb Chính trị quốc gia, H. 2004. tr. 208 - 290
- Lê Minh Quân: Xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước theo định hướng XHCN ở Việt Nam hiện nay. Nxb Chính trị quốc gia, H. 2003. tr. 25 - 75
- Phan Xuân Sơn (chủ biên): Các đoàn thể nhân dân trong việc đảm bảo dân chủ ở cơ sở. Nxb Chính trị quốc gia, H. 2002, tr.76 - 232.
(1) Do Nguyễn Như ý biên soạn, Nxb Văn hóa - Thông tin, 1998.
[1] Xem thêm chuyên đề: Nhà nước và phương thức thực thi quyền lực nhà nước
[2] Có nhiều cách gọi khác nhau ở các nước khác nhau như: tổ chức xã hội độc lập, nhóm lợi ích, nhóm áp lực…
HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ VIỆT NAM HIỆN ĐẠI
Về cơ bản, hệ thống chính trị nước ta cũng được tổ chức theo những mô hình phổ biến của hệ thống chính trị các nước trên thế giới. Mặt khác hệ thống chính trị nước ta cũng có những đặc điểm riêng.
1.1. Hệ thống chính trị nước ta do duy nhất một đảng – Đảng cộng sản lãnh đạo
Trong lịch sử chính trị cận - hiện đại nước ta đã từng tồn tại nhiều đảng chính trị khác nhau. Trước cách mạng Tháng Tám 1945, ở Việt Nam có trên 10 các đảng chính trị hoạt động.
Các đảng này có nhiều khuynh hướng chính trị khác nhau, trong đó có đảng yêu nước chống chủ nghĩa thực dân Pháp. Tuy vậy, các đảng hoặc bị tan rã sau những cuộc đàn áp hoặc không đóng vai trò đáng kể trong đời sống chính trị lúc bấy giờ. Chỉ có Đảng cộng sản Việt Nam mặc dù phải chịu hiều hi sinh, tổn thất, nhưng vẫn đứng vững và phát triển, thực hiện được vai trò đảng duy nhất lãnh đạo cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc của nhân dân Việt Nam. Vai trò đó còn giữ đến ngày nay.
Khi nước Việt Nam dân chủ cộng hoà vừa ra đời, trong thời kỳ "ngàn cân treo sợi tóc" có nhiều đảng chính trị đã tham gia chính trường, như Đảng cộng sản Đông dương, Việt Nam cách mạng đồng minh, tức Việt Cách, do Nguyễn Hải Thần thành lập, Đại Việt Quốc dân đảng (do Trương Tử Anh, thành lập). Hai đảng này theo chủ nghĩa dân tộc, thân Tưởng.
Trong cuộc Tổng tuyển cử 1- 1946, Việt Quốc và Viết Cách là những đảng có quyền và lúc đầu đã tham gia tranh cử, nhưng sau đã từ chối. Tuy vậy, Quốc hội đầu tiên của nước Việt Nam dân chủ cộng hoà đã dành 70 ghế cho hai đảng này. Lúc này, Đảng cộng sản Đông Dương đã tuyên bố tự giải tán, công khai tham gia bầu cử chỉ là Hội Nghiên cứu mác xít và Mặt trận Việt Minh (do Đảng thành lập). Trong bối cảnh bầu cử đa đảng đối lập, Mặt trận Việt Minh mà thực chất là Đảng cộng sản Đông Dương đã giành thắng lợi, trở thành đảng cầm quyền. Năm 1946, Với sự giúp đỡ của Đảng cộng sản Đông Dương, Đảng dân chủ Việt Nam được thành lập. Đảng xã hội Việt Nam và Đảng dân chủ Việt Nam đều thừa nhận vai trò lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam.
Từ năm 1947 đến giữa những năm tám mươi thế kỷ XX 1980, ở miến Bắc, có ba đảng chính trị, nhưng chỉ có duy nhất Đảng cộng sản Việt Nam là đảng duy nhất đóng vai trò lãnh đạo và là cầm quyền. Từ giữa nhưng năm 1980, khi Đảng xã hội và Đảng dân chủ tuyên bố tự giải tán đến nay, hệ thống đảng ở nước ta là hệ thống duy nhất một đảng và chỉ có một đảng cầm quyền, lãnh đạo nhà nước và xã hội.
Như vậy vai trò là đảng duy nhất lãnh đạo và cầm quyền của Đảng cộng sản Việt Nam trong hệ thống chính trị nước ta không chỉ tuỳ thuộc vào ý chí chủ quan, năng lực của Đảng mà còn có nguyên nhân lịch sử của đất nước.
Thứ hai: Các tổ chức chính trị - xã hội do Đảng cộng sản thành lập, có lịch sử đấu tranh vẻ vang, có vai trò to lớn trong sự nghiệp giải phóng dân tộc, bảo vệ và xây dựng đất nước.
Thứ ba: Hệ thống chính trị nước ta là hệ thống chính trị được xây dựng theo mô hình Xô viết, đang trong quá trình đổi mới toàn diện.
Thứ tư: Nền hành chính nhà nước, một bộ phận quan trọng của hệ thống chính trị còn rất non trẻ (so với các nền hành chính các nước phương Tây có lịch sử liên tục hàng trăm năm), hầu như không kế thừa được gì từ nền cai trị của chế độ thực dân – phong kiến, bị ảnh hưởng nặng của mô hình tập trung quan liêu cao độ, nhiều năm điều hành chiến tranh, lại phải quản lý đất nước thực hiện những nhiệm vụ lịch sử mới mẻ và to lớn. Nói cách khác, chúng ta đang cố gắng xây dựng một hệ thống chính trị hiện đại, dân chủ – pháp quyền xã hội chủ nghĩa, nhưng nền tảng kinh tế –xã hội còn yếu ớt. Từ đó đặt ra nhiều khó khăn và thách thức cho quá trình đổi mới hệ thống chính trị ở nức ta.
2.2. Cấu trúc của hệ thống chính trị nước ta
2.2.1. Tổ chức bộ máy (hệ thống thể chế) bao gồm:
- Đảng cộng sản Việt Nam lãnh đạo nhà nước và xã hội, là hạt nhân của hệ thống chính trị.
- Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam bao gồm Quốc hội, Chủ tịch nước, Chính phủ, hệ thống tư pháp (Toà án và Viện kiểm sát nhân dân) và chính quyền địa phương.
+ Quốc hội nước ta có chức năng lập pháp, quyết định những vấn đề xã hội, quốc phòng an ninh của đất nước, những nguyên tắc chủ yếu về tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước, về quan hệ xã hội và hoạt động của công dân.
Quốc hội thực hiện quyền giám sát tối cao đối với hoạt động của Nhà nước.
+ Chủ tịch nước là người đứng đầu Nhà nước, thay mặt nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt nam về đối nội và đối ngoại.
+ Chính phủ là cơ quan chấp hành của Quốc hội, cơ quan hành chính nhà nước cao nhất của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Nhân dân các địa phương bầu ra Hội đồng nhân dân cấp mình. Hội đồng nhân dân là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương. Hội đồng nhân dân bầu ra Uỷ ban nhân dân, Uỷ ban nhân dân là cơ quan chấp hành của Hội đồng nhân dân, là cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương, chịu trách nhiệm chấp hành Hiến pháp, luật, các văn bản của các cơ quan nhà nước cấp trên và nghị quyết của Hội đồng nhân dân (H.pháp, điều 123)
+ Toà án nhân dân và Viện kiểm sát nhân dân
Chức năng, nhiệm vụ của Toà án nhân dân và Viện kiểm sát nhân dân là bảo vệ Hiến pháp, pháp luật của nước ta.
Ở nước ta, quyền lực nhà nước tập trung vào Quốc hội, các cơ quan khác như Chủ tịch nước, Chính phủ, Toà án nhân dân và Viện kiểm sát nhân dân đều được Quốc hội cử ra, chịu trách nhiệm trước Quốc hội, báo cáo công tác trước Quốc hội.
- Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị – xã hội thành viên là một bộ phận của hệ thống chính trị.
2.2.2. Các quan hệ chính trị
Ngoài các quan hệ mang tính phổ biến (như đã phân tích ở phần lý thuyết chung), trong hệ thống chính trị nước ta, các quan hệ chính trị được xác lập do một cơ chế chủ đạo (và cũng là quan hệ chủ đạo) là Đảng lãnh đạo, nhân dân làm chủ, Nhà nước quản lý.
2.2.3. Các nguyên tắc và cơ chế vận hành
Hệ thống chính trị nước ta vừa hoạt động theo những nguyên tắc phổ biến của hệ thống chính trị nói chung vừa tuân thủ những nguyên tắc đặc thù khác, như sau:
3.1. Những thành tựu
-Tính hiệu lực, tính kiểm soát, tính huy động cao.
- Tạo sức mạnh đoàn kết nhất trí cao.
- Thống nhất từ trên xuống dưới.
- Tạo sự ổn định chính trị - xã hội cần thiết.
- Tạo được sự đồng thuận xã hội.
Thể hiện:
Hệ thống chính trị nước ta tỏ rõ ưu việt trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược, hoàn thành cuộc cách mạng giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước.
Sau chiến tranh, đất nước trải qua nhiều khó khăn chủ quan và khách quan, đặc biệt là sau khi hệ thống xã hội chủ nghĩa tan rã, nhưng chúng ta vẫn đứng vững được vượt qua thử thách, khủng hoảng đưa đất nước phát triển lên một bước mới, đạt được nhiều thành tựu to lớn.
Nguyên nhân của những thành tựu đó là “do Đảng ta có bản lĩnh vững vàng và đường lối lãnh đạo đúng đắn, Nhà nước có cố gắng lớn trong việc điều hành, quản lý; toàn dân và toàn quân phát huy lòng yêu nước và tinh thần dũng cảm, đoàn kết nhất trí, cần cù, năng động sáng tạo, tiếp tục thực hiện đổi mới, ra sức xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa” [1]
3.2. Những hạn chế
- Có sự chồng chéo chức năng, nhiệm vụ, phương thức và phạm vi hoạt động của từng chủ thể trong hệ thống chính trị.
Cơ chế Đảng lãnh đạo, nhân dân làm chủ, Nhà nước quản lý chưa được cụ thể hoá.
- Chưa thực hiện tốt các cơ chế thực thi quyền lực chính trị. Có sự bao biện của cấp trên với cấp dưới, sự ỷ lại, thụ động của cấp dưới với cấp trên.
- Chúng ta còn chưa thực hiện đầy đủ và đúng đắn các nguyên tắc hoạt động của hệ thống chính trị. Thể hiện trong các vấn đề:
- Còn quan niệm giản đơn về tập trung và thống nhất quyền lực nhà nước và sự phân công các cơ quan nhà nước trong viẹc thực thi các quyền.
Những yếu kém của hệ thống chính trị được Đại hội đại biểu Đảng toàn quốc lần thứ IX và thứ X chỉ rõ:
1- Việc tổ chức thực hiện nghị quyết, chủ trương của Đảng chưa tốt, kỷ luật, kỷ cương chưa nghiêm.
2- Một số quan điểm chủ trương chưa rõ; chưa có sự thống nhất và chưa được thông suốt ở các cấp, các ngành.
3- Cải cách hành chính chậm, thiếu kiên quyết, hiệu quả thấp.
4- Công tác tư tưởng lý luận, công tác tổ chức cán bộ có nhiều yếu kém bất cập.
5- Các cơ quan nhà nước cũng còn nhiều yếu kém bất cập.
6- Hoạt động của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân cũng chưa ngang tầm với chức năng, vai trò tiềm năng của chúng. Tổ chức và hoạt động còn nặng tính hành chính, tính phong trào hình thức, xa dân, chưa thực sự bảo vệ lợi ích chính đáng của thành viên hội viên, còn lúng túng trong việc tìm ra những hình thức và nội dung hoạt động cho phù hợp với thời kỳ mới.
Đổi mới hệ thống chính trị ở nước ta cân tuân thủ những định hướng có tính giải pháp lớn được Đại hội đại biểu Đảng toàn quốc lần thứ IX (2001) và lần thứ X (2006) vạch ra:
4.1. Xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân dưới sự lãnh đạo của Đảng. Trong đó cần chú trọng
4.2. Cải cách thể chế và phương thức hoạt động của Nhà nước
4.3. Phát huy dân chủ, giữ vững kỷ luật, kỷ cương, tăng cường pháp chế
- Hoàn thiện hệ thống bầu cử, nhằm nâng cao chất lượng của đại biểu dân cử các cấp và Quốc hội. Tăng thêm đại biểu chuyên trách của Quốc hội
- Đổi mới các hình thức dân chủ trực tiếp, xây dựng luật trưng cầu dân ý.
- Đổi mới các hình thức dân chủ gián tiếp, đặc biệt là dân chủ đại diện.
- Thực hiện tốt Quy chế dân chủ cơ sở.
- Đổi mới cơ chế vận hành của hệ thống chính trị, xác định rõ trách nhiệm của các chủ thể chính trị trong các hoạt động chung.
- Tăng cường pháp chế.
4.4. Xây dựng chỉnh đốn Đảng, nâng cao năng lực lãnh đạo, năng lực cầm quyền và sức chiến đấu của Đảng
- Giáo dục tư tưởng, chính trị, rèn luyện đạo đức cách mạng, chống chủ nghĩa cá nhân.
- Tiếp tục đổi mới công tác cán bộ.
- Xây dựng, củng cố tổ chức, cơ sở đảng.
- Kiện toàn tổ chức, đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng.
4.5. Tiếp tục đổi mới phương thức hoạt động của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể chính trị – xã hội. Trong đó cần chú ý
- Thực hiện tốt Luật Mặt trận Tổ Quốc Việt nam.
- Đổi mới hình thức và nội dung hoạt động. Mở rộng và đa dạng hoá các hình thức tập hợp nhân dân, tham gia các đoàn thể nhân dân, các tổ chức xã hội, các hội nghề nghiệp, văn hoá hữu nghị, từ thiện nhân đạo…sớm ban hành luật về hội.
- Thực hiện tốt chức năng giám sát và phản biện xã hội.
- Khắc phục tệ hành chính hoá, xa dân.
- Tổ chức các phong trào thi đua yêu nước gắn với các chương trình phát triển kinh tế- xã hội của cả nước, từng địa phương và địa bàn dân cư.
- Hướng mạnh hoạt động về cơ sở, cộng đồng dân cư và từng gia đình.
4.6. Những định hướng có tính giải pháp này cần được thực hiện trong điều kiện tích cực chống nạn quan liêu tham nhũng, bảo đảm sự phát triển bền vững nền kinh tế và thực hiện một bước công bằng xã hội
5.1. Phương châm
- Thực hiện đổi mới từng bước vững chắc trên cơ sở đổi mới kinh tế.
- Khâu mấu chốt là phân định rõ chức năng và giải quyết tốt mối quan hệ giữa Đảng, Nhà nước và Mặt trận Tổ Quốc.
5.2. Nguyên tắc
Một: Đổi mới hệ thống chính trị nhằm tạo điều kiện cho ổn định chính trị phát triển kinh tế – xã hội.
Hai: Đổi mới hệ thống chính trị phải đảm bảo tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với hệ thống chính trị.
Ba: Đổi mới hệ thống chính trị nhằm tăng cường hiệu quả của hệ thống chính trị theo hướng xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.
Bốn: Đổi mới hệ thống chính trị phải đảm bảo quyền làm chủ của nhân dân.
Năm: Đổi mới hệ thống chính trị phải đồng thời với quyết tâm phòng chống quan liêu tham nhũng.
Kết luận:
Đổi mới hệ thống chính trị đòi hỏi phải đổi mới đồng bộ, tổng thể, từ đổi mới Đảng lãnh đạo, Chính phủ, hệ thống tư pháp, Mặt trận Tổ quốc, hệ thống bầu cử; đổi mới cơ chế, nguyên tắc hoạt động và quan hệ giữa các bộ phận cấu thành của hệ thống chính trị.
Mặc dầu vậy, trọng tâm của đổi mới hệ thống chính trị nước ta như Đảng ta đã xác định là “cải cách hành chính, xây dựng nhà nước trong sạch vững mạnh”[3].
Khâu có ý nghĩa sống còn là đổi mới hệ thống chính trị ở cơ sở. Đổi mới hệ thống chính trị đồng thời phải thực hiện tốt Quy chế dân chủ cơ sở, dân chủ hoá đời sống xã hội, mở rộng dân chủ trực tiếp, thực hiện tốt hơn dân chủ đại diện, tạo điều kiện cho nhân dân thực sự tham gia ngày càng đông đảo và hiệu quả vào công việc của Nhà nước và xã hội.
CÂU HỎI TRƯỚC KHI NGHE GIẢNG:
CÂU HỎI THẢO LUẬN
1.Hệ thống chính trị nước ta có những đặc điểm gì? Những đặc điểm đó ảnh hưởng như thế nào đến quá trình đổi mới hệ thống chính trị nước ta?
CÂU HỎI ÔN TẬP:
TÀI LIỆU THAM KHẢO
- Hiến pháp Việt Nam 1946, 1959, 1980, 1992 và 1992 sửa đổi 2001.
- Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb Chính trị quốc gia, H. 2001. tr. 123 – 147.
- Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb Chính trị quốc gia, H. 2006. tr.116 – 139.
-Hoàng Chí Bảo chủ biên: Hệ thống chính trị ở cơ sở nông thôn nước ta hiện nay. Nxb Chính trị quốc gia, H. 2004. Tr. 5-30
- Đặng Đình Tân (chủ biên): Thể chế đảng cầm quyền ở nước ta, một số vấn đề lý luận và thực tiễn Nxb Chính trị quốc gia, H. 2004. tr. 208 - 290
- Lê Minh Quân: Xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước theo định hướng XHCN ở Việt Nam hiện nay. Nxb Chính trị quốc gia, H. 2003. tr. 25 - 75
- Phan Xuân Sơn (chủ biên): Các đoàn thể nhân dân trong việc đảm bảo dân chủ ở cơ sở. Nxb Chính trị quốc gia, H. 2002, tr.76 - 232.
- Phan Xuân Sơn (2012): Hệ thống chính trị và một số vấn đề về đổi mới hệ thống chính trị Việt Nam hiện nay, LLCT-HC, Hà Nội.
[1] Đảng cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX. Nxb CTQG, H. 2001. tr. 72-73
[2] Có thể coi đây là những nội dung đổi mới hệ thống chính trị nước ta
[3] Đảng cộng sản Việt Nam: Đã dẫn tr. 220
Người gửi / điện thoại
Đánh giá